92825 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Tháng 12, 2014 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM NGÂN HÀNG THẾ GIỚI Tháng 12 - 2014 2 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM LỜI CẢM ƠN Nhóm soạn thảo Báo cáo bao gồm: Sandeep Mahajan (Phụ trách Lĩnh vực Chuyên ngành & Chuyên gia Kinh tế trưởng), Đinh Tuấn Việt (Quản lý Kinh tế Vĩ mô và Ngân sách), Habib Rab (Quản trị Nhà nước), Triệu Quốc Việt (Tài chính và Thị trường), Nguyễn Văn Làn (Thương mại và Cạnh tranh), dưới sự chỉ đạo chung của Victoria Kwakwa (Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam) và Matthew Verghis (Giám đốc Chuyên ngành MFM). Báo cáo cũng nhận được ý kiến đóng góp từ các đồng nghiệp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Vũ Thị Anh Linh trợ lý quá trình biên soạn và phát hành. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 3 BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á CDS Hợp đồng Hoán đổi Rủi ro Tín dụng CIT Thuế Thu nhập Doanh nghiệp CPI Chỉ số Giá Tiêu dùng DB Báo cáo về Môi trường Kinh doanh DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNNN Doanh nghiệp Nhà nước EAP Đông Á và Thái Bình Dương FDI Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài GDP Tổng Sản phẩm Quốc nội GFS Thống kê Tài khóa của Chính phủ HĐND Hội đồng Nhân dân IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế IRR Quyền Sở hữu Trí tuệ KH PTKT-XH Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội M&A Mua lại và Sát nhập NHNNVN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NSNN Ngân sách Nhà nước ODA Hỗ trợ Phát triển Chính thức PAPI Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh PCI Chỉ số Cạnh tranh cấp tỉnh PMI Chỉ số Quản lý Mua hàng PPP Hợp tác công-tư TCTK Tổng cục Thống kê TD&ĐG Theo dõi và Đánh giá TPP Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương TW Trung ương VAMC Công ty Mua bán Nợ Việt Nam VAT Thuế Giá trị Gia tăng WB Ngân hàng Thế giới TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI LIÊN NGÂN HÀNG CHÍNH THỨC: US$ = VND 21.246 Năm tài khóa của Chính phủ: từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 4 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM MỤC LỤC TÓM TẮT TỔNG QUAN 6 PHẦN I: NHỮNG DIỄN BIẾN KINH TẾ GẦN ĐÂY 11 I.1. Bối Cảnh Kinh Tế Quốc Tế 11 I.2. Những Diễn Biến Kinh Tế Gần Đây Ở Việt Nam 13 I.2.1. Các Nhà Đầu Tư Toàn Cầu Ghi Nhận Sự Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô Của Việt Nam 13 I.2.2. Những Dấu Hiệu Ban Đầu Cho Thấy Đà Phục Hồi Của Nền Kinh Tế 14 I.2.3. Hai Thái Cực Của DN Trong Nước Và DN Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài 15 I.2.4. Chiến Lược Tài Khóa Trung Hạn Cần Được Củng Cố 17 I.2.5. Tăng Trưởng Tín Dụng Vẫn Ở Dưới Mức Kỳ Vọng 19 I.2.6. Hoạt Động Ngoại Thương Vững Mạnh 19 I.3. Chương Trình Cải Cách Cơ Cấu 23 I.3.1. Các Biện Pháp Cải Cách Nhằm Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh 23 I.3.2. Mặc Dù Đà Tăng Tốc Đã Mạnh Hơn Nhưng Cải Cách DNNN Vẫn Chậm Hơn So Với Mục Tiêu 26 I.3.3. Cần Đẩy Nhanh Cải Cách Khu Vực Ngân Hàng 27 I.4.  Triển Vọng Trung Hạn: Triển Vọng Tăng Trưởng Khiêm Tốn Và Những Rủi Ro Bất Lợi 28 PHẦN II: CHỦ ĐỀ CHUYÊN SÂU: ĐÁNH GIÁ KHU VỰC TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM 31 CÁC HÌNH VÀ BẢNG Hình 1.1. Tăng Trưởng GDP Và Sản Lượng Công Nghiệp Toàn Cầu 11 Hình 1.2. Môi Trường Kinh Tế Vĩ Mô Ổn Định 13 Hình1.3. Tăng Trưởng Kinh Tế Đang Trên Đà Phục Hồi 14 Hình 1.4. Lực Cầu Nội Địa Yếu 15 Hình 1.5. Đầu Tư Tư Nhân Trong Nước Và Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài 16 Hình1.6. Tâm Lý Kinh Doanh Của Các Nhà Đầu Tư Nước Ngoài Đã Cải Thiện 17 Hình 1.7. Kết quả Thu Ngân Sách Nhà Nước 17 Hình 1.8. Tình Hình Chi Ngân Sách Nhà Nước 18 Hình1.9. Tăng Trưởng Tín Dụng Tăng Chậm Mức Độ 19 Hình1.10. Tông Thương Mại Hàng Hóa 20 Hình1.11. Mức Độ Tập Trung Thương Mại Của Việt Nam 21 Hình 1.12. So Sánh Mức Độ Tập Trung Thương Mại Của Việt Nam 22 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 5 Hình 1.13. Tổng Kim Ngạch Thương Mại Dịch Vụ 22 Hình 1.14. Khách Du Lịch Nước Ngoài Và Doanh Thu Từ Các Dịch Vụ Du Lịch 23 Hình 1.15. Xếp Hạng Về Môi Trường Kinh Doanh 24 Bảng 1.1. Tăng Trưởng GDP Khu Vực Đông Á Và Thái Bình Dương 12 Bảng 1.2. Xuất Khẩu Hàng Hóa 20 Bảng 1.3. Các Chỉ Số Kinh Tế Trong Ngắn Hạn 29 Hộp 1 Các Biện Pháp Nhằm Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh Và Nâng Cao Khả Năng Cạnh Tranh Quốc Gia 25 Hộp 2 Tại Sao Quá Trình Cổ Phần Hóa DNNN Lại Mất Nhiều Thời Gian Như Vậy? 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52 6 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TÓM TẮT TỔNG QUAN Những Diễn biến Kinh tế Gần đây Nền kinh tế thế giới đang có một số dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên tốc độ hồi phục không đồng đều. Dự kiến tốc độ tăng trưởng toàn cầu năm 2014 sẽ tăng ở mức khiêm tốn, ở mức 2,6%, và đạt mức bình quân 3,3% trong giai đoạn 2015-17. Kinh tế Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro đã tăng trở lại trong quý 2 và quý 3 (Hình 1). GDP của Hoa Kỳ tăng mạnh ở mức 4.6% (đã điều chỉnh theo thời vụ và quy đổi ra năm) trong quý 2 và 3.9% trong quý 3 nhờ tác động của chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng, nới lỏng tài khóa, tăng việc làm, cải thiện niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng. Dự kiến tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ sẽ đạt trên 2% cho cả năm 2014 và tăng lên mức 3% trong năm 2015. Tuy nhiên, tại Khu vực đồng Euro, đà phục hồi bị suy yếu do lực cầu nội địa và tăng trưởng tín dụng yếu ớt, và triển vọng đầu tư ảm đạm. Tại Nhật Bản, GDP ước giảm 1.6% (mức quy đổi ra năm) trong quý 3 sau khi đã giảm 7.6% trong quý 2. Dự kiến tăng trưởng kinh tế ở cả khu vực Châu Âu và Nhật Bản đạt mức khoảng 1% trong năm 2014 và tăng chậm trong năm 2015. Hoạt động kinh tế đang phục hồi ở khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ dự kiến sẽ làm tăng nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, giúp khu vực này duy trì tốc độ tăng trưởng. Tăng trưởng ở các nước đang phát triển Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương sẽ giảm dần từ mức 7,2% vào năm 2013 xuống còn 6,9% vào năm 2014-15. Tuy nhiên, năng lực của của các nước khác nhau trong việc hưởng lợi từ sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu sẽ dao động một cách đáng kể, phản ánh những điểm nghẽn mang tính cơ cấu tác động tới đầu tư và khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu, cũng như giá cả xuất khẩu của các công ty sản xuất hàng hóa. Ngoài ra các nền kinh tế trong Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương cũng có cánh cửa để mở ra cơ hội, đó là thực thi những cải cách quan trọng – và trong một số trường hợp thì những cải cách đó lẽ ra đã phải được thực hiện từ lâu; ưu tiên trong ngắn hạn là giải quyết những yếu kém và những lĩnh vực kém hiệu quả do đã thực hiện những chính sách tiền tệ nới lỏng và kích thích tài khóa trong một thời gian dài. Trong dài hạn, cần tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện hậu cần thương mại, và tự do hóa dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả trong bối cảnh hội nhập khu vực. Đã xuất hiện những dấu hiệu tích cực ban đầu về quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng GDP quý 3 của Việt Nam đạt mức tương đối cao là 6,2% (so với cùng kỳ năm ngoái), góp phần đưa tốc độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm 2014 lên 5,6%. Trong 9 tháng đầu năm 2014, tăng trưởng của các ngành kinh tế chính (trừ dịch vụ) đều đạt mức cao hơn so với cùng kỳ 2013. Dựa trên dấu hiệu tích cực này, tăng trưởng GDP của Việt Nam dự báo sẽ tăng nhẹ từ mức 5,4% của năm 2013 lên mức khoảng 5,6% cho cả năm 2014. Cầu nội địa vẫn còn yếu là yếu tố chính cản trở Việt Nam đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn. Ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm xuống mức 2,6% (so với cùng kỳ) vào tháng 11 năm 2014 – mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2009. Lạm phát của Việt Nam dừng ở mức thấp một phần nhờ nuồn ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 7 cung lương thực phẩm dồi dào, giá năng lượng giảm và cầu nội địa vẫn còn yếu ớt. Tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định kể từ khi NHNVN điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng 1% hồi tháng 6/2014. Cán cân thanh toán vãng lai mạnh hơn đã giúp Việt Nam tăng dự trữ ngoại tệ lên mức tương đương 3,1 tháng nhập khẩu vào tháng 6 năm 2014 từ mức 2,4 tháng vào tháng 12 năm 2013. Những diễn biến kinh tế vĩ mô tích cực này đã góp phần cải thiện mức xếp hạng rủi ro tín dụng quốc gia của Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam phát hành thành công 1 tỉ USD trái phiếu chính phủ trên thị trường vốn quốc tế, với mức lãi suất 4,8%/năm. Thu ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm nay đã được cải thiện. Tổng thu ngân sách ước đạt 81% kế hoạch 2014 và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2013. Cùng lúc đó, tổng chi ngân sách cũng tăng 11.5% chủ yếu do chi thường xuyên. Chỉ tiêu bội chi ngân sách đề ra trong Kế hoạch Ngân sách năm 2014 là 5,3% GDP (tính theo phương pháp của Việt Nam). Phân tích Bền vững Nợ (DSA) gần đây nhất do IMF và Ngân hàng Thế giới phối hợp thực hiện (tháng 6 năm 2014) thì Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có mức độ rủi ro thấp về mức độ nợ công. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng khá nhanh của tổng nợ công trong vài năm gần đây đang trở thành vấn đề gây nhiều quan ngại. Chính sách tài khóa trung hạn cần hướng tới việc củng cố tài khóa hơn nữa trong bối cảnh dư địa tài khóa đang bị thu hẹp, và cần tính đến những rủi ro về nghĩa vụ nợ tiềm ẩn. Quá trình có thể được hỗ trợ thông qua việc cải thiện hiệu quả hành thu (thông qua việc mở rộng nguồn thu thuế, rút dần các biện pháp miễn thuế và không tiếp tục giảm thuế suất), giảm mức tăng trưởng chi tiêu, cải thiện hiệu quả đầu tư công và mở rộng quy mô áp dụng khung ngân sách trung hạn mà đã được thí điểm ở một số Bộ ngành để triển khai trên toàn quốc. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đảm bảo lưới an sinh xã hội khi Việt Nam chuyển đổi sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường nhiều hơn. Tăng trưởng tín dụng vẫn thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra, làm cản trở nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện đẩy nhanh tín dụng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cho vay vẫn bị kìm nén - một phần do chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng còn xấu - một phần do các ngân hàng cũng còn quan ngại về sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp đi vay, do thị trường bất động sản èo uột, và do cầu tín dụng còn yếu với nguyên nhân xuất phát từ mức độ niềm tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư thấp. Việc tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ trong bối cảnh như vậy sẽ khó có khả năng mang lại tác động đáng kể tới tăng trưởng tín dụng chung. Tuy nhiên, mức tiền gửi trong khu vực ngân hàng tiếp tục tăng trưởng với tốc độ lành mạnh, từ đó đảm bảo mức thanh khoản phù hợp cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước vẫn tiếp tục trong tình trạng khá tương phản trong quá trình phục hồi kinh tế. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Tâm lý kinh doanh của khu vực FDI đã cải thiện trong vòng 1 năm qua. Phản ánh thái độ tương đối lạc quan của các nhà đầu tư nước ngoài, Chỉ số Quản trị Mua hàng (PMI) (được điều chỉnh theo mùa vụ) của khu vực sản xuất đã đạt mức 51 điểm vào tháng 10, một tín hiệu cho thấy khu vực này sẽ tiếp tục mở rộng. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước dường như vẫn chưa vượt qua khó khăn thách thức mà họ đã đối mặt trong vài ba năm qua. Số lượng các doanh nghiệp bị đóng cửa, phá sản hoặc tạm ngừng hoạt động vẫn tiếp tục gia tăng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước rõ ràng đang bị tác động tiêu cực bởi khả năng hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn, do lực cầu nội địa yếu và do môi trường cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. 8 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Chính phủ Việt Nam đã triển khai một số biện pháp quan trọng trong năm 2014 nhằm cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19 (ngày 18 tháng 3 năm 2014) trong đó ưu tiên rút ngắn thời gian xử lý và hoàn thành các thủ tục hành chính, giảm chi phí hành chính, và tăng cường mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước. Luật Phá sản sửa đổi được thông qua vào tháng 7 năm 2014 là một nỗ lực khác của Chính phủ trong việc cải thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, dự kiến sẽ cải thiện tình hình quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, hiện đang được sửa đổi và theo kế hoạch thì sẽ được Quốc hội thông qua vào tháng 11 năm 2014. Mặc dù đà tăng tốc đã mạnh hơn nhưng tiến độ cải cách trong khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục chậm hơn so với chỉ tiêu đề ra. Chính phủ đã đưa ra một tầm nhìn chính sách rất rõ ràng về cải cách DNNN, nhưng mấu chốt là phải đảm bảo thực hiện một cách nhất quán hơn. 74 DNNN đã được cổ phần hóa vào năm 2013 (gấp ba con số năm 2011 và 2014) và đà tăng tốc vẫn tiếp tục được duy trì vào năm 2014. Tuy nhiên, mục tiêu cổ phần hóa 200 DNNN vào năm 2014 khó có khả năng trở thành hiện thực. Đã có một số tiến bộ kể từ khi có Nghị định 71, trong đó có quy định yêu cầu tất cả các doanh nghiệp nhà nước phi ngân hàng phải thoái vốn hoàn toàn khỏi 5 lĩnh vực rủi ro ngoài ngành kinh doanh cốt lõi trước năm 2015; tuy nhiên, tiến độ cũng lại chậm hơn so với dự kiến. Để đạt được tiến bộ trong tương lai đòi hỏi phải tăng cường công khai thông tin, giám sát hiệu quả hoạt động, cải cách quản trị doanh nghiệp, đảm bảo minh bạch trong quá trình thoái vốn, và đảm bảo cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng trong việc giám sát doanh nghiệp nhà nước. Khung pháp lý cho việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được tiếp tục tăng cường thông qua việc ban hành Nghị quyết 15, trong đó có một kế hoạch hành động toàn diện nhằm thúc đẩy tiến độ thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước. Hai luật có liên quan – gồm Luật về Quản lý và Sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào Sản xuất và Kinh doanh và Luật Doanh nghiệp – đã được thông qua tại kỳ họp Quốc hội diễn ra trong tháng 11/2014. Đẩy nhanh cải cách khu vực ngân hàng vẫn tiếp tục là một ưu tiên. Thanh khoản tốt đã giúp giảm bớt căng thẳng trong khu vực ngân hàng, mặc dù tiến độ thực hiện những cải cách cơ cấu quan trọng hơn cần phải được tăng tốc. Việc giải quyết nợ xấu trong hệ thống vẫn còn là một vấn đề chính gây quan ngại. Tính đến hết tháng 10 năm 2014, Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) mua được khối lượng nợ xấu với trị giá khoảng 90 tỉ đồng VN, tương đương với 4,2 tỷ USD. Tuy nhiên VAMC vẫn chưa đưa ra được một chiến lược rõ ràng và khả thi về việc giải quyết triệt để các khoản nợ xấu đó. Nỗ lực của VAMC trong lĩnh vực này đã và đang bị cản trở do chưa có được một khung pháp lý thuận lợi cho việc giải quyết tình trạng vỡ nợ và cấp quyền sở hữu tài sản, cũng như khung pháp lý cho việc bảo vệ VAMC và ngân hàng thương mại khỏi những vụ kiện tụng có thể xảy ra. Bản thân khối lượng nợ xấu trong hệ thống cũng còn chưa rõ ràng. Về mặt này, việc ban hành Thông tư 02 và 09 về phân loại nợ và trích lập dự phòng mất vốn là một bước đi đúng hướng, nhưng thực thi Thông tư 02 đã bị hoãn cho tới tháng 4 năm 2015. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu thực hiện 6-7 vụ Mua lại và Sát nhập (M&A) trong khu vực ngân hàng vào năm 2014, nhưng trong năm vừa qua chưa có vụ Mua lại và Sát nhập nào. Một tín hiệu tốt là theo báo cáo thì cho đến nay chưa có vụ Mua lại & Sát nhập nào trong các vụ đã được thực hiện đã dẫn tới hậu quả gây xáo trộn hệ thống, và điều này cũng có thể đúng. Triển vọng trong trung hạn của Việt Nam cho thấy tăng trưởng GDP sẽ tiếp tục ở mức khiêm tốn và tình hình ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tiếp tục được củng cố. Theo kịch bản cơ sở thì tăng trưởng GDP ước tính sẽ đạt mức 5,6% cho cả năm 2014, nhờ tăng trưởng trong khu vực sản xuất chế biến, chế ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 9 tạo, thương mại và nhờ hiệu quả hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Áp lực lạm phát dự báo ở mức thấp trong khi cán thương mại và thanh toán vangxlaij tiếp tục thặng dư. Việc Chính phủ tiếp tục cam kết củng cố tài khóa và giảm mức nợ là tín hiệu đáng khích lệ, và để thực hiện được những mục tiêu đó thì điều hết sức quan trọng là phải cải thiện hiệu quả thu ngân sách, kiểm soát chi thường xuyên tốt hơn, và cải thiện đầu tư công. Tuy nhiên, triển vọng kinh tế trung hạn của Việt Nam vẫn chịu tác động của những rủi ro về kinh tế vĩ mô sau đây: (i) tiến độ tương đối chậm trong việc cải cách DNNN và ngân hàng có thể gây tác động bất lợi đối với tình hình tài chính vĩ mô, làm ảnh hưởng tới triển vọng tăng trưởng và tạo ra nghĩa vụ nợ tiềm ẩn lớn cho khu vực công; (ii) định hướng xuất khẩu mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam khiến cho nền kinh tế này chịu rủi ro trước những diễn biến bất lợi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt là ở các nước phát triển vốn là nơi hấp thụ phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chủ đề Chuyên sâu của Báo cáo kỳ này: Đánh giá Khu vực Tài chính của Việt Nam Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) đã đưa ra một khung khổ toàn diện cho việc xác định những yếu kém của hệ thống tài chính và đưa ra những giải pháp chính sách phù hợp. Nhận thức được tầm quan trọng của FSAP, vào tháng 7 năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã mời Ngân hàng Thế giới và IMF triển khai FSAP cho Việt Nam. Một phần không thể tách rời trong FSAP là Báo cáo Đánh giá Khu vực Tài chính (FSA) – đưa ra một cái nhìn sâu về mức độ ổn định và tiềm năng phát triển của hệ thống tài chính. Phần Chủ đề chuyên sâu của báo cáo Điểm Lại kỳ này giới thiệu lại những thông điệp chính của Báo cáo FSA được công bố vào ngày 29 tháng 8 năm 2014. Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những khó khăn trong khu vực doanh nghiệp và khu vực tài chính và tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần. Một vài phân khúc trong khu vực doanh nghiệp đã bộc lộ hiệu quả hoạt động yếu kém và khó khăn về tài chính, từ đó ảnh hưởng tới sức khỏe của hệ thống ngân hàng. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quy mô lớn đã không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ và một số doanh nghiệp nhà nước khác có vẻ như có mức vay nợ quá cao. Hệ thống ngân hàng đã tích lũy một khối lượng nợ xấu đáng kể và nhiều ngân hàng nhỏ đã gặp phải những khó khăn nghiêm trọng hơn về thanh khoản và khả năng thanh toán trong cùng giai đoạn đó, dẫn tới việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải can thiệp. Việc hệ thống ngân hàng giảm khả năng cho vay là một trong những nhân tố góp phần làm cho mức tăng trưởng tín dụng giảm mạnh như đã nói ở trên. Hiệu quả hoạt động kém của khu vực tài chính là do một loạt phức hợp các vấn đề về thể chế và quy định pháp lý. Cụ thể là: các cơ quan chức năng trung ương và địa phương đã có một số đợt can thiệp vào các quyết định về đầu tư và tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước; cơ cấu quản trị của các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại nhà nước không phù hợp và năng lực quản trị rủi ro còn yếu; một số ngân hàng thương mại cổ phần có hoạt động tín dụng với khách hàng có quan hệ; cơ sở hạ tầng tài chính còn yếu kém, với những bất cập về các tiêu chuẩn báo cáo tài chính; và việc quản lý và giám sát đối với khu vực tài chính còn nhiều lỗ hổng. Trong bối cảnh này, tăng trưởng tín dụng vẫn thường ở mức quá cao và phân bổ tín dụng còn nhiều bất cập. Sự biến động về kinh tế vĩ mô trong vòng 5 năm qua đã làm cho các vấn đề này cùng cộng lực và làm cho chất lượng danh mục cho vay của các ngân hàng ngày càng xấu đi. 10 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Chính phủ đã công bố một chương trình cải cách toàn diện được thiết kế nhằm giải quyết các vấn đề của khu vực tài chính và khu vực doanh nghiệp. Chương trình cải cách này được chính thức đưa vào Kế hoạch PTKT-XH giai đoạn 2011-2015 và được Quốc hội phê duyệt vào tháng 11 năm 2011. Chương trình gồm 3 trụ cột cơ bản: tái cấu trúc khu vực ngân hàng, tái cấu trúc khu vực DNNN, và cải cách đầu tư công. Từ khi ban hành chương trình đến nay, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã thành lập một công ty quản lý tài sản mới (VAMC) để xử lý nợ xấu. Chương trình cải cách khu vực ngân hàng rất toàn diện, nhưng cần tiếp tục phát triển các khía cạnh về cải cách và chương trình cần được thực hiện một cách nhất quán nhằm đảm bảo rằng khu vực tài chính có thể phục hồi hoàn toàn. Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) đã đưa ra một tập hợp gồm nhiều các khuyến nghị chính sách mà có thể được sử dụng nhằm thực hiện KH PTKT-XH và chương trình tái cấu trúc khu vực ngân hàng. Các khuyến nghị được chia thành 3 nhóm: (i) kế hoạch nhằm xử lý khối lượng nợ xấu lớn hiện nay; (ii) các biện pháp nhằm đảm bảo có những dòng tài chính mới lành mạnh và ngăn ngừa tình trạng tích lũy thêm nợ xấu; và (iii) một tập hợp các bước tiến về mặt chính sách được thiết kế nhằm bảo vệ khu vực tài chính trong giai đoạn cải cách dự kiến. Với mỗi nhóm biện pháp, kế hoạch đã xác định ra những điều kiện tiên quyết (giai đoạn đầu) và các tập hợp biện pháp cụ thể cần thực hiện trong ngắn hạn (giai đoạn 2) cũng như những biện pháp có thể thực hiện dần trong trung hạn (giai đoạn 3). Các khuyến nghị được đưa ra bao gồm khuyến nghị về kế hoạch tái cấp vốn, xử lý nợ xấu, cải cách pháp lý và các cải cách khác, và mở rộng lưới an sinh xã hội một cách tạm thời. Việc thực hiện các cuộc kiểm toán tài chính đặc biệt đối với các ngân hàng sẽ giúp đưa ra đánh giá chính xác về nợ xấu, nhu cầu tái cấp vốn gắn liền với nợ xấu, và sẽ cung cấp những thông tin mấu chốt cho việc thiết kế các đề án xử lý nợ xấu. Việc thực hiện kiểm toán hoạt động sẽ giúp đưa ra cơ sở cho các kế hoạch tái cấu trúc tại các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước. Việc xác định những xu hướng chủ đạo trong mối quan hệ chéo giữa các ngân hàng và bên vay sẽ cho phép theo dõi rủi ro hệ thống trong giai đoạn cải cách. Trong giai đoạn hai, các ngân hàng sẽ được tái cấp vốn và các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước sẽ rút dần vốn cổ phần tại các ngân hàng khác. Giai đoạn này cũng sẽ đòi hỏi phải chuẩn bị cho việc cải cách các hệ thống về quy định pháp lý và giám sát. Một chương trình xử lý nợ xấu rõ ràng sẽ được xây dựng trong giai đoạn hai và được khởi động, thực hiện một cách đầy đủ trong giai đoạn ba. Chương trình này sẽ được triển khai theo 4 hướng song song, một là do các ngân hàng chủ trì, một là do một VAMC tập trung chủ trì, và hai hướng triển khai bổ sung nhằm xử lý nợ xấu liên quan tới các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn và có tính chất phức tạp. Đồng thời, một loạt các biện pháp nhằm giảm nhẹ nhiệm vụ chính sách của các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước sẽ được triển khai. Việc thực hiện chương trình phát triển các thị trường vốn và cải cách cơ sở hạ tầng tài chính và quản lý nhà nước đối với khu vực tài chính sẽ được tăng cường trong giai đoạn cuối này. PHẦN I NHỮNG DIỄN BIẾN KINH TẾ GẦN ĐÂY I.1. Bối cảnh kinh tế quốc tế 1. Nền kinh tế thế giới đang có một số dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên tốc độ hồi phục không đồng đều. Dự kiến tốc độ tăng trưởng toàn cầu năm 2014 sẽ tăng ở mức khiêm tốn, ở mức 2,6%, và đạt mức bình quân 3,3% trong giai đoạn 2015-17. Kinh tế Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro đã tăng trở lại trong quý 2 và quý 3 (Hình 1). GDP của Hoa Kỳ tăng mạnh ở mức 4.6% (đã điều chỉnh theo thời vụ và quy đổi ra năm) trong quý 2 và 3.9% trong quý 3 nhờ tác động của chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng, nới lỏng tài khóa, tăng việc làm, cải thiện niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng. Dự kiến tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ sẽ đạt trên 2% cho cả năm 2014 và tăng lên mức 3% trong năm 2015. Tuy nhiên, tại Khu vực đồng Euro, đà phục hồi bị suy yếu do lực cầu nội địa và tăng trưởng tín dụng yếu ớt, và triển vọng đầu tư ảm đạm. Tại Nhật Bản, GDP ước giảm 1.6% (mức quy đổi ra năm) trong quý 3 sau khi đã giảm 7.6% trong quý 2. Dự kiến tăng trưởng kinh tế ở cả khu vực Châu Âu và Nhật Bản đạt mức khoảng 1% trong năm 2014 và tăng chậm trong năm 2015. Hình 1.1: Tăng trưởng GDP và Sản xuất Công nghiệp Toàn cầu Tăng trưởng GDP (%, quy ra năm) Sản xuất công nghiệp (%, so cùng kỳ) 8 8 6 7 4 6 5 2 4 0 3 -2 2 1 -4 0 -6 -1 -2 -8 -3 Q1-12 Q3-12 Q1-13 Q3-13 Q1-14 Q3-14 13 3 3 3 13 13 14 4 4 4 14 -1 -1 l-1 -1 -1 l-1 n- p- v- n- p- ar ay ar ay Ju Ju No Ja Ja Se Se Các nước đang phát triển Khu vực đồng Euro M M M M Nhật Bản Hoa Kỳ Thế giới Các nước thu nhập cao Các nước đang PT Nguồn: Ngân hàng Thế giới 12 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 2. Hoạt động kinh tế đang dần phục hồi ở khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ dự kiến sẽ làm tăng nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, giúp khu vực này duy trì tốc độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng tại các nước Đông Á-Thái Bình Dương sẽ giảm nhẹ từ mức 7,2% năm 2013 xuống mức 6,9% năm 2014-15. Tại Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm từ 7,4% năm 2014 xuống còn 7,1% năm 2016 (Bảng 1.1), phản ánh các nỗ lực chính sách mạnh mẽ của Chính phủ nhằm giải quyết những yếu kém về tài chính và những điểm nghẽn mang tính cơ cấu, từ đó hướng nền kinh tế đi theo con đường tăng trưởng bền vững hơn. Các nước trong khu vực trừ Trung Quốc sẽ có tốc độ tăng trưởng thấp nhất, ở mức 4,8% năm 2014, phản ánh sự giảm tốc trong tăng trưởng của In-đô-nê-xi-a và Thái Lan, trước khi phục hồi trở lại để đạt mức 5,3% vào năm 2015-16 khi mà xuất khẩu đã ổn định và tác động của việc điều chỉnh nội địa tại các quốc gia ASEAN bắt đầu giảm nhẹ. Tuy nhiên, khả năng hưởng lợi từ việc phục hồi kinh tế toàn cầu ở mỗi nước sẽ khác nhau, phản ánh những điểm nghẽn mang tính cơ cấu của mỗi nước mà có ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư, tăng cường năng lực cạnh tranh xuất khẩu và gây ra tình trạng giá xuất khẩu của các công ty sản xuất hàng hóa thấp. Các quốc gia đang phát triển Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương sẽ vẫn là khu vực đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Bảng 1.1: Tăng trưởng GDP tại Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương 2012 2013f 2014f 2015f 2016f Đông Á 6.0 6.1 6.0 6.1 6.1 Các nước đang PT Đông Á 7.4 7.2 6.9 6.9 6.8 Trung Quốc 7.7 7.7 7.4 7.2 7.1 Indonesia 6.3 5.8 5.2 5.6 5.6 Malaysia 5.6 4.7 4.9 5.0 5.0 Philippines 6.8 7.2 6.4 6.7 6.5 Thái Lan 6.5 2.9 1.5 3.5 4.0 Việt Nam 5.2 5.4 5.6 5.6 5.8 Cam Pu Chia 7.3 7.4 7.2 7.5 7.2 Lào 8.0 8.5 7.5 6.4 7.0 Myanma 7.3 8.3 8.5 8.5 8.2 Các nước đang PT Đông Á (trừ Trung Quốc) 6.2 5.2 4.8 5.3 5.3 Giả định về môi trường kinh tế toàn cầu Thế giới 2.5 2.4 2.6 3.2 3.3 Các nước thu nhập cao 1.5 1.3 1.8 2.3 2.4 Các nước đang phát triển 4.9 4.8 4.5 5.0 5.3 Nguồn: Ngân hàng Thế giới, tháng 10 năm 2014 3. Đánh giá về triển vọng kinh tế toàn cầu và khu vực còn phụ thuộc vào một số rủi ro bất lợi. Vẫn còn nhiều điều chưa rõ về sức mạnh hay tính bền vững của đà phục hồi kinh tế tại các nước thu nhập cao (thí dụ như kinh tế Nhật Bản bất ngờ rơi vào tình trạng suy thoái trong quý 3), cũng như về thời gian thực hiện các hành động chính sách của các ngân hàng trung ương tại các nước này. Một rủi ro chính đối với triển vọng kinh tế khu vực là, sự phục hồi kinh tế toàn cầu, và kèm theo đó là tăng nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu trong khu vực, có thể sẽ diễn ra chậm hơn so với dự kiến. Bên cạnh đó, các điều kiện tài chính toàn cầu cũng có thể sẽ được siết chặt, và độ bất ổn về tài chính cũng có thể tăng, đặc biệt trong trường hợp những căng thẳng về địa chính trị vẫn gia tăng; điều này có thể gây ra những thách thức về khả năng trả nợ đối với một số nền kinh tế. Đồng thời, giá bất động sản tại một số nước cũng sẽ chịu sức ép lớn. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 13 4. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất trắc, vẫn còn đó cơ hội cho các nước Đông Á-Thái Bình Dương thực thi những cải cách quan trọng – mà trong một số trường hợp thì những cải cách đó lẽ ra đã phải được thực hiện từ lâu; tại một số nước, ưu tiên trong ngắn hạn là giải quyết những yếu kém và những lĩnh vực kém hiệu quả do đã thực hiện những chính sách tiền tệ nới lỏng và kích thích tài khóa trong một thời gian dài. Trong trung và dài hạn, hầu hết các nước đều phải tập trung vào việc thực hiện những cải cách về cơ cấu cần thiết nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu. Những cải cách như vậy sẽ giúp các nước có điều kiện để hưởng lợi từ sự phục hồi toàn cầu, cũng như từ sự vươn lên của Trung Quốc trong chuỗi giá trị với các mặt hàng xuất khẩu ít thâm dụng lao động hơn. Những lĩnh vực cải cách then chốt bao gồm lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, hậu cần, và tự do hóa dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bao gồm cả những hướng cải cách cần thiết trong bối cảnh hội nhập khu vực. I.2. Cập Nhật Tình Hình Kinh Tế Việt Nam I. 2.1. Các nhà Đầu tư Toàn cầu Ghi nhận Sự Ổn định Kinh tế Vĩ mô của Việt Nam 5. Việt Nam tiếp tục duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2014 đã giảm xuống mức 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái (xem Hình 1.2) – mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2009 – kết quả của của nguồn cung lương thực phẩm dồi dào, giá năng lượng giảm và cầu nội địa vẫn mức thấp. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế vẫn ở dưới mức tiềm năng cũng góp phần giảm nhẹ áp lực lên lạm phát.1 Tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định kể từ khi NHNNVN điều chỉnh tỷ giá giao dịch liên ngân hàng 1% vào tháng 6/2014. Cán cân đối ngoại mạnh hơn cho phép tăng dữ trữ ngoại tệ lên mức tương đương khoảng 3,1 tháng nhập khẩu vào cuối tháng 6 năm 2014 so với mức 2,4 tháng vào tháng 12 năm 2013. Diễn biến thuận lợi của kinh tế vĩ mô đã góp phần cải thiện xếp hạng tín dụng quốc gia của Việt Nam, cho phép Việt Nam huy động vốn trên thị trường quốc tế 2 Ngày 7/11/2014, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn quốc tế với mức lãi suất 4,8%/năm – ước tính cao hơn lợi tức trái phiếu kho bạc của Mỹ cùng kỳ hạn khoảng 239 điểm phần trăm.3 Hình 1.2: : Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định Lạm phát giảm Tỷ giá hối đoái tương đối ổn định (%, so với cùng kỳ) (đồng/USD) 40 22,000 Headline TT tự do Food 21,750 BQ liên NH Chỉ số chung 30 Core phẩm Lương-thực Vietcombank (TB mua/bán Cơ bản 21,500 20 21,250 21,000 10 20,750 0 20,500 Oct-10 Oct-11 Oct-12 Oct-13 Oct-14 J-13M-13M-13J-13 S-13N-13 J-14M-14M-14J-14 S-14N-14 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới 1 Báo cáo của Đoàn Tham khảo Điều IV Điều lệ IMF năm 2014 ước tính chênh lệch sản lượng công nghiệp so với năm 2013 là khoảng 1,5% GDP, phản ánh mối tương quan chặt chẽ theo thời gian giữa xu hướng lên xuống của chênh lệch sản lượng và lạm phát. 2 Gần đây nhất, đầu tháng 11/2014, hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam lên một bậc, từ B+ lên BB- (dưới phẩm cấp đầu tư ba bậc), tiếp bước Standard & Poor’s và Moody’s với động thái tương tự. 3 Một phần tiền thu được từ việc bán trái phiếu sẽ được sử dụng để hoán đổi nợ trái phiếu Chính phủ đã phát hành năm 14 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Rủi ro tín dụng quốc gia Dự trữ ngoại tệ 600 (điểm cơ bản) (tháng nhập khẩu) 500 400 300 200 100 Chênh lệch lãi suất trái phiếu CP Hoán đổi rủi ro tín dụng 0 N-11 M-12 N-12 M-13 N-13 M-14 N-14 Q2-11 Q4-11 Q2-12 Q4-12 Q2-13 Q4-13 Q2-14 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới I. 2.2. Những Dấu hiệu Ban đầu cho thấy Đà Phục hồi của Nền Kinh tế 6. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã có dấu hiệu khởi sắc. GDP Q3/2014 ước tăng 6,2% so với cùng kỳ 2013, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng 5,6% trong chín tháng đầu năm (Hình 1.3). Tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trừ dịch vụ trong 9 tháng đầu năm 2014 đều đạt mức tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 6.7% so với cùng kỳ 2013 nhờ mức tăng khá ngoạn mục của quý 3. Ngành chế biến, chế tạo dự kiến tiếp tục hưởng lợi từ việc tăng đầu tư nước ngoài và tăng cầu từ các đối tác kinh doanh chính của Việt Nam, đặc biệt là nước Mỹ. Sự phục hồi của ngành xây dựng phản ánh mức tăng chi đầu tư phát triển của nhà nước. Ngành nông nghiệp cũng đã khởi sắc. Theo dự báo, Việt Nam sẽ sản xuất được 45 triệu tấn gạo trong năm nay, cao hơn gần 800 ngàn tấn so với năm 2013. Tuy nhiên, tăng trưởng khu vực dịch vụ vẫn còn ở mức thấp, khoảng 6% cho đến thời điểm này của năm 2014. Dựa trên dấu hiệu tích cực này, tăng trưởng GDP của Việt Nam dự báo sẽ tăng nhẹ từ mức 5,4% của năm 2013 lên mức 5,6% của năm 2014. Hình 1.3: Tăng trưởng kinh tế đang dần hồi phục Tăng GDP quý (%) Tăng trưởng GDP theo ngành (%) 8.0 7.0 2013 9M-14 Q1-14 Q2-14 Q3-14 TỔNG SỐ 5.4 5.6 5.1 5.4 6.2 6.0 Nông nghiệp 2.6 3.0 2.4 3.2 3.1 Công nghiệp & XD 5.4 6.4 4.7 5.9 8.3 5.0 Công nghiệp 5.4 6.4 4.9 5.9 8.2 Chế tạo, chế biến 7.4 8.6 7.3 8.4 9.8 4.0 Xây dựng 6.6 6.3 3.4 5.5 8.8 Dịch vụ 5.4 6.0 5.9 6.1 6.0 3.0 q3-09 q3-10 q3-11 q3-12 q3-13 q3-14 Nguồn: Tổng cục Thống kê ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 15 7. Mức cầu nội địa tương đối thấp đã hạn chế đà phục hồi đáng lẽ còn nhanh hơn của nền kinh tế. Tăng trưởng doanh số bán lẻ - chỉ số đại diện cho tiêu dùng tư nhân - đạt mức 6,1% (theo giá trị thực) trong 10 tháng đầu năm 2014, so với mức 4,6% cùng kỳ năm ngoái nhưng thấp hơn đáng kể so với năm 2010. Tổng đầu tư 9 tháng đầu năm đạt khoảng 31,2% GDP, tương đương với 9 tháng đầu năm 2013 – tuy nhiên mức này cũng còn thấp hơn nhiều so với năm 2010. Ngược lại, cán cân thương mại được cải thiện, phản ánh việc kim ngạch xuất khẩu ròng tiếp tục đóng góp tích cực cho tăng trưởng GDP trong năm thứ ba liên liên tiếp. Hình 1.4: Cầu nội địa còn yếu Hình 1.4.a: Tăng trưởng doanh số bán lẻ (percent) Hình 1.4.b: Đầu tư (% GDP) 40 38.5 40 25 Tăng trưởng danh nghĩa 33.3 31.1 30.4 31.2 31.2 20 Tăng trưởng thực 30 30 15 20 20 10 10 10 5 0 0 0 2010 2011 2012 2013 9m-03 9m-04 Oct-10 Oct-11 Oct-12 Oct-13 Oct-14 Nhà nước Ngoài NN Vốn ĐTNN Tổng số Nguồn: Tổng cục Thống kê I.2.3. Hai Thái Cực của Doanh Nghiệp Trong Nước và Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài 8. Số lượng doanh nghiệp trong nước đóng cửa hoặc tạm ngừng hoạt động đang ngày càng tăng. Năm 2013, tổng số doanh nghiệp đóng cửa hay ngừng hoạt động kinh doanh là 61 nghìn doanh nghiệp so với con số 47 nghìn năm 2010. Trong 10 tháng đầu năm 2014, có thêm 54 nghìn doanh nghiệp rơi vào tình trạng này - tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, số lượng doanh nghiệp mới thành lập lại giảm 6,5% (Hình 1.5). Doanh nghiệp tư nhân trong nước dường như chịu tác động bởi các yếu tố: tiếp cận nguồn vốn hạn chế, nhu cầu tiêu dùng trong nước thấp và sân chơi bất bình đẳng so với khu vực doanh nghiệp nhà nước. 16 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Hình 1.5: Vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân trong nước DN đóng cửa và đăng ký mới Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (nghìn DN) (Tỷ USD) 30 89.2 77.5 77.0 69.9 20 60.0 60.7 53.9 54.3 54.3 46.9 10 0 2010 2011 2012 2013 10T-14 2010 2011 2012 2013 10T-14 Đăng ký thành lập mới Đóng cửa, giải thể, Cam kết Thực hiện tạm ngừng hoạt động Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 9. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dường như không phải chịu quá nhiều áp lực của hệ thống quản lý trong nước và hiện vẫn là nguồn tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Khu vực này đóng góp gần 20% GDP, 22% tổng vốn đầu tư, 2/3 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và tạo ra ¼ việc làm cho khu vực doanh nghiệp chính thức. Ngành chế tạo, chế biến của Việt Nam vẫn là ngành chính thu hút nhà đầu tư nước ngoài: hiện ngành này chiếm khoảng 70% tổng số vốn FDI đăng ký. Những yếu tố thu hút các nhà đầu tư quốc tế bao gồm giá nhân công cạnh tranh, lực lượng lao động tương đối có tay nghề (đối với hoạt động sản xuất cần nhiều nhân công) và kỷ luật, tình hình chính trị ổn định và vị trí liền kề chuỗi cung ứng của Trung Quốc 10. Tâm lý kinh doanh trong khu vực FDI đã được cải thiện trong một năm trở lại đây. Xu hướng này được phản ánh qua Chỉ số Môi trường Kinh doanh của EuroCham (BCI), một đánh giá thường xuyên về tâm lý kinh doanh của các doanh nghiệp Châu Âu đang hoạt động tại Việt Nam. Chỉ số này đã tăng đáng kể trong bốn quý vừa qua. Chỉ số BCI trong Quý III/2014 đạt mốc cao kỷ lục trong 3 năm.4 Thể hiện sự lạc quan tương đối của các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) cho khu vực sản xuất đạt 51 điểm vào tháng 10, báo hiệu sự mở rộng liên tục của ngành này (Hình 1.6). Đây là tháng thứ 14 liên tiếp Chỉ số PMI duy trì trên mức giá trị quan trọng 50.5 4 Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, tháng 10/2014 5 Markit Economics của HSBC, Dịch vụ Thông tin Tài chính, Tháng 11/2014 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 17 Hình 1.6: Cải thiện tâm lý kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài PMI ngành sản xuất Chỉ số Môi trường Kinh doanh của Việt Nam (BCI) 54 85 53 80 79 52 75 74 51 70 70 65 66 50 63 60 59 49 56 55 48 52 50 50 50 50 48 48 47 45 Trung điểm 45 43 46 40 Oct-12 Feb-13 Jun-13 Oct-13 Feb-14 Jun-14 Oct-14 Q1-11 Q3-11 Q1-12 Q3-12 Q1-13 Q3-13 Q1-14 Q3-14 Nguồn: HSBC Nguồn: EuroCham Việt Nam I.2.4. Sự Cần Thiết Của Một Chiến Lược Củng Cố Tài Khóa Trong Trung Hạn 11. Thu ngân sách tăng trong 9 tháng đầu năm 2014. Tổng thu ngân sách ước tính đạt xấp xỉ 81% kế hoạch Ngân sách Nhà nước năm 2014, tăng thêm khoảng 17% so với cùng kỳ năm trước (Hình 1.7). Mặc dù khoản thu từ dầu giảm 4% (so với cùng kỳ năm trước), nguồn thu từ các loại thuế chính (thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế mậu dịch) cải thiện đáng kể so với năm 2013 nhờ hiệu quả hoạt động tốt hơn của khu vực doanh nghiệp và cải thiện công tác quản lý thu thuế. Cụ thể, thu thuế TNDN tăng từ các nguồn thu: (i) lợi nhuận giữ lại của các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước; và (ii) phân chia lợi nhuận từ liên doanh Nga – Việt (Vietsopetro); (iii) nộp thuế năm 2013 nhưng được hoãn lại do các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Cổ tức thu về từ các khoản đầu tư nhà nước trong các doanh nghiệp cũng tăng. Hình 1.7: Thu ngân sách nhà nước (9T-2014 so với (9T-2013, ngàn tỷ đồng) 9T-2014 so với Kế hoạch 2014, ngàn tỷ đồng) 800 9c-2013 800 Kế hoạch NS 2014 9T-2014 31.0 Tăng (%) 600 9T-2014 600 25.6 400 400 16.9 16.3 12.4 200 200 7.4 0 0.2 0.3 0 n n NN ĐB NN DN ĐB DN T T uế uế K K nh ập nh ập yê yê VA VA XN XN ân ân th th cá nh cá nh NS NS gu gu ụ ụ ập ập uế uế th th uế uế u u u u in in nh nh u u Th Th Th Th th th Th Th u u Th Th tà tà tiê tiê u u uế uế th th uế uế uế uế Th Th Th Th uế uế Th Th Th Th Nguồn: Bộ Tài chính 18 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 12. Cùng thời gian này, tổng chi ngân sách cũng tăng 11,5%, phần lớn là do tăng chi thường xuyên. Các khoản chi thường xuyên (không kể chi trả nợ) đã chiếm khoảng 70% tổng chi ngân sách (Hình 1.8). Chi đầu tư phát triển có tốc độ tăng khiêm tốn 3,4%. Bội chi ngân sách (theo cách tính của Chính phủ) ước tính vào khoảng 4,9% GDP trong 9 tháng đầu năm 2014 và được bù đắp bằng nợ trong nước. Trong 9 tháng đầu năm 2014, Kho bạc Nhà nước đã phát hành 120 nghìn tỷ đồng trái phiếu, tăng 45% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục đóng góp vào sự gia tăng nợ trong nước. Hình 1.8: Chi ngân sách nhà nước (9T-2014 so với (9T-2013, ngàn tỷ đồng) (9T-2014 so với Kế hoạch 2014, ngàn tỷ đồng) 9T-2013 1,000 800 9M-2014 45.1 Kế hoạch NS 2014 Tăng (%) 800 600 9T-2014 600 400 400 200 11.5 11.1 10.7 12.4 200 8.1 3.4 0 o và o và y y n n o o PT PT N N va va tế tế XH XH tạ tạ yê yê SN SN bả u bả u Y Y tư tư xu xu ãi ãi ào ào m hư m hư iN iN ảl ảl ầu ầu àđ àđ g g đảơng đảơng Tr Tr ch ch ờn ờn iđ iđ cv cv hư hư ng ng Lư Lư Ch Ch dụ dụ it it Tổ Tổ Ch Ch áo áo Gi Gi Nguồn: Bộ Tài chính 13. Chỉ tiêu bội chi ngân sách Nhà nước năm 2014 là 5.3% GDP theo các chuẩn mực kế toán của Chính phủ. Chính phủ đã báo cáo lên Quốc hội rằng bội chi ngân sách là 2 trong số 15 chỉ tiêu cao trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội (giai đoạn 2011-2015) không đạt mục tiêu đề ra. Trong bối cảnh đó, cần tới một chính sách tài khóa trung hạn nhằm củng cố hơn nữa. Có thể thúc đẩy quá trình này thông qua cải thiện công tác thu thuế (mở rộng cơ sở thu thuế và từng bước kết thúc chính sách miễn giảm thuế), giảm dần chi ngân sách, cải thiện hiệu quả đầu tư công, đồng thời mở rộng phạm vi triển khai khung ngân sách trung hạn hiện đang thí điểm tại nhiều bộ chủ quản ra toàn quốc. Mặc dù mức chi thường xuyên vẫn cao và sẽ được điều chỉnh nhưng vấn đề an sinh xã hội cần được bảo đảm khi Việt Nam đang dần quá độ lên nền kinh tế thị trường. 14. Phân tích tính bền vững của nợ do Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới đồng thực hiện gần đây nhất (DSA, tháng 6 năm 2014) đánh giá Việt Nam có độ rủi ro về nợ thấp nhưng tổng mức nợ công và nghĩ vụ trả nợ gia tăng đang gây nhiều quan ngoại. Tổng nợ công và nợ do Chính phủ bảo lãnh (trong và ngoài nước) tăng từ ước tính khoảng 47% GDP (theo cách tính của GFS) năm 2011 lên 52% năm 2013 và dự báo ở mức 55% năm 2014. Các khoản nợ vay trong nước tăng khá nhanh trong mấy năm vừa qua - từ 18,4% GDP năm 2011 lên 25,2% năm 2013. Các chỉ số nợ công cao hơn đáng kể so với báo cáo phân tích DSA trước đó và dự báo sẽ còn tăng lên đi trong trung hạn trước khi bắt đầu giảm xuống. Tỷ lệ nợ công và nợ do Chính phủ bảo lãnh dự kiến sẽ tăng từ khoảng 60% GDP vào năm 2017 trước khi giảm xuống gần 48% GDP vào cuối kỳ dự báo. Nợ công đang tăng và tiến gần tới ngưỡng giới hạn dư địa tài khóa cho các khoản chi tiêu quan trọng và chi phí tiềm ẩn cho công cuộc cải cách ngân hàng và DNNN. Tỷ lệ trả nợ trên tổng thu ngân sách cũng được dự báo sẽ tăng khi mức ưu đãi sẽ giảm dần trong các khoản vay nợ nước ngoài của Việt Nam. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 19 Một chiến lược tài khóa trung hạn phải gắn với tính bền vững của nợ công và tính đến những rủi ro về nghĩa vụ nợ tiềm tàng. I.2.5. Tăng Trưởng Tín Dụng Vẫn Còn Thấp So Với Kỳ Vọng 15. Tăng trưởng tín dụng tiếp tục ở mức thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra, làm cản trở nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện đẩy nhanh tín dụng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đến hết tháng 10 năm 2014, tổng tín dụng ước tăng 8.6% so với cuối năm 2013 và còn thấp hơn mục tiêu năm nay là 12-14% (Hình 1.9). Tăng trưởng tín dụng phần nào vẫn bị ảnh hưởng bởi cân đối tài chính không tốt của các ngân hàng, mối lo ngại về sức khỏe tài chính của người đi vay, thị trường bất động sản èo uột và nhu cầu tín dụng suy yếu do niềm tin giảm của người tiêu dùng và nhà đầu tư. Tuy nhiên, huy động ngân hàng tiếp tục tăng ở mức khá cao, đảm bảo đủ thanh khoản trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Nới lỏng chính sách tiền tệ hơn nữa trong một bối cảnh như vậy ít có khả năng tạo ra nhiều tác động tới tăng trưởng tín dụng chung. Hình 1.9: Tăng trưởng tín dụng phục hồi chậm Tăng trưởng tín dụng (%) Lương tín dụng hàng tháng (ngàn tỷ đồng) 40 Lượng tín dụng hàng tháng (ngàn tỷ đồng) Tổng tín dụng 40 Tăng trưởng tín dụng (%) Dec-13 150 Tổng PT thanh toán 131.1 30 Tổng tiền gửi Dec-12 30 Dec-10 Dec-11 103.7 97.8 91.0 100 20 20 50 10 10 0 0 0 Oct-10 Oct-11 Oct-12 Oct-13 Oct-14 Oct-10 Oct-11 Oct-12 Oct-13 Oct-14 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước I.2.6. Ngoại Thương Đạt Kết Quả Tốt I.2.6.1. Xuất nhập khẩu hàng hóa 16. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tiếp tục tăng mạnh nhờ sự năng động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam đã tăng 13,4% (so với cùng kỳ năm trước), đạt 123 tỷ đô la trong 10 tháng đầu năm 2014 trong khi giá trị nhập khẩu hàng hóa tăng thêm 11,2% lên 121 tỷ đô la (Hình 1.10). Trong khi lợi nhuận từ xuất khẩu hàng hóa đang dần dần hồi phục thì kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng sản xuất truyền thống đòi hỏi nhiều nhân công như may mặc, giày dép và đồ nội thất tiếp tục duy trì tăng trưởng nhanh. Bổ sung đáng lưu ý vào ngành hàng xuất khẩu là các sản phẩm công nghệ cao và có giá trị cao hơn (như điện thoại di động và linh kiện, máy tính, đồ điện tử và phụ kiện, linh kiện phụ tùng ô tô). Đây đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. 20 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Hình 1.10: Tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa Tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa 15 (Tỷ đô la) 10 5 0 -5 -10 -15 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân TM Nguồn: Tổng Cục Thống kê 17. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh cũng phản ánh một phần kết quả xuất khẩu khả quan trong những tháng gần đây của các doanh nghiệp trong nước. Kết quả hoạt động xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tiếp tục được cải thiện, tăng thêm 12,7% (so sánh với cùng kỳ năm trước) trong Quý III và 13,1% nếu tính 10 tháng đầu năm 2014 sau khi tăng trưởng chậm chạp trong hai năm trở lại đây (Bảng 1.2). Bảng 1.2: Xuất khẩu hàng hóa Tỷ trọng (%) Tăng trưởng (%) 2012 2013 10M-14 2012 2013 10M-14 Tổng giá trị xuất khẩu 100.0 100.0 100.0 18.1 15.4 13.4 Dầu thô 7.2 5.5 5.1 13.6 -11.6 5.4 Ngoài dầu thô 92.8 94.5 94.9 18.5 17.5 13.9 Nông nghiệp và thủy sản 18.3 15.0 14.3 6.0 -5.5 12.6 Gạo 3.2 2.2 2.1 0.4 -20.4 -0.1 Hàng gia công giá trị thấp 23.6 24.2 25.1 13.9 18.2 19.3 Hàng may mặc 13.2 13.6 14.3 14.2 18.9 19.3 Hàng gia công giá trị cao 18.0 24.1 22.6 85.7 54.9 4.6 Điện thoại 11.1 16.1 15.6 98.8 67.1 6.9 Hàng hóa khác 32.9 31.2 31.9 7.4 9.4 17.7 Khu vực kinh tế trong nước 36.9 33.3 33.0 1.1 4.0 13.1 Khu vực có vốn ĐTNN 63.1 66.7 67.0 31.1 22.0 13.6 Khu vực có vốn ĐTNN (trừ điện thoại) 52.0 50.7 51.4 22.3 12.4 14.3 Nguồn: Tổng Cục Thống kê ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 21 18. Nhìn chung, thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khá đa dạng xét theo khu vực địa lý. Trong số các đối tác thương mại, Hoa Kỳ vẫn là đối tác lớn nhất của Việt Nam, đóng góp 19% vào tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Tiếp sau là Liên minh Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn còn quá tập trung (Hình 1.11 và 1.12). Mười đối tác thương mại hàng đầu chiếm hơn 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt nam. Hiện tại, Trung Quốc là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 29% tổng giá trị nhập khẩu. Thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc nhìn chung không chịu nhiều tác động từ những bất đồng lãnh thổ gần đây. Xuất khẩu 9 tháng đầu năm của Việt Nam sang Trung Quốc tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 10% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Hình 1.11: Mức độ tập trung thương mại hàng hóa của Việt Nam Thương mại theo đối tác (tỷ trọng) Mức độ tập trung thương mại theo đối tác Xuất khấu 2012 2013 9M-14 Trung Quốc 10.8 10.0 10.1 Nhập khẩu Xuất khẩu Nhật Bản 11.4 10.3 10.0 (Chỉ số Her ndahl = 0.1287) (Chỉ số Her ndahl = 0.0703) Hoa Kỳ 17.2 18.1 19.0 1st Các đối tác hàng đầu EU 17.7 18.7 18.3 5th ASEAN 15.1 13.7 12.6 Đông bắc Á 9.9 9.8 9.4 Các nước khác 17.9 19.3 20.5 10th Nhập khẩu 2012 2013 9M-14 15th Trung Quốc 25.3 28.0 29.1 Nhật Bản 10.2 8.8 8.5 20th Hoa Kỳ 4.2 4.0 4.3 EU 7.7 7.1 6.1 25th ASEAN 17.7 15.6 15.8 100% 80% 60% 40% 20% 0% 20% 40% 60% 80% 100% Đông bắc Á 22.0 23.6 22.8 Các nước khác 12.9 12.9 13.4 Nguồn: Tổng Cục Thống kê Nguồn: Các tác giả ước tính theo số liệu 9 tháng 2014 của Tổng cục Hải quan 6 Chỉ số Herfindahl: Chỉ số này là thước đo bóc tách giá trị thương mại giữa các đối tác thương mại. Chỉ số càng cao thể hiện giá trị thương mại (xuất nhập khẩu) tập trung ở càng ít thị trường, trong đó quốc gia có giao dịch thương mại như nhau giữa tất cả đối tác sẽ có chỉ số tiệm cận tới 0. 22 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Hình 1.12: So ánh mức độ tập trung thương mại hàng hóa của Việt Nam Mức độ tập trung xuất khẩu theo đối tác Mức độ tập trung nhập khẩu theo đối tác Her nadahl Her nadahl index index 0.180 0.140 Australia Vietnam 0.160 0.161 0.120 0.125 0.140 0.100 0.120 Korea Philippines Indonesia, Japan, 0.076 0.100 0.095 0.080 0.103 Indonesia Japan USA Philippines, 0.075 0.080 0.071 0.089 0.073 0.060 0.066 Vietnam 0.060 0.068 Singapore, Russia 0.040 S. Africa, 0.057 0.061 China, 0.04 0.040 S. Africa 0.054 Germany 0.045 India 0.042 India, 0.042 Germany, 0.042 0.020 0.041 0.020 0.000 0.000 3.000 4.000 5.000 6.000 7.000 8.000 3.000 4.000 5.000 6.000 7.000 8.000 Ln (2013 exports, cif, nominal US$) Ln (2013 imports, cif, nominal US$) Nguồn: Các tác giả ước tính theo số liệu 2013 của COMTRADE (UN) I.2.6.2. Thương mại dịch vụ tuy ở mức còn nhỏ nhưng có tiềm năng 19. Thương mại dịch vụ mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong kết quả ngoại thương của Việt Nam: Năm 2013, xuất khẩu (các khoản thu) dịch vụ thương mại chiếm khoảng 7,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; và nhập khẩu (các khoản thanh toán) dịch vụ thương mại chiếm 8,3% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (Hình 1.13). Hình 1.13: Tổng giá trị thương mại dịch vụ Tổng giá trị thương mại dịch vụ (Tỷ đô la) 150 100 50 0 -50 -100 -150 05 06 07 08 09 10 11 12 13 4 -1 20 20 20 20 20 20 20 20 20 M 10 Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Nguồn: Tổng Cục Thống kê 20. Xuất khẩu dịch vụ liên quan tới du lịch chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam trong khi vận tải và vận chuyển hàng hóa nhập khẩu chiếm 62% giá trị nhập khẩu dịch vụ. Việt Nam tiếp đón 7,6 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2013 và 6,6 triệu lượt khách trong 10 tháng đầu năm 2014, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước (Hình 1.14). Du khách từ Trung Quốc, Hàn ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 23 Quốc, Nhật Bản, Cam-pu-chia, Đài Loan (Trung Quốc) và Nga chiếm gần 60% tổng số du khách nước ngoài tới Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại năm 2014. Việt Nam có khả năng thu hút thêm nhiều du khách do giàu tiềm năng trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, cần nâng cao hơn nữa chất lượng cung cấp dịch vụ. Nếu có thể làm được điều này, xuất khẩu dịch vụ có thể chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới. Hình 1.14: Khách quốc tế và ước thu từ dịch vụ du lịch 8 8 Xuất khẩu dịch vụ Nhập khẩu dịch vụ Thu từ dịch vụ du lịch (tỷ USD) Khách quốc tế đến Việt Nam 6 (triệu lượt) 6 7% 21% 17% 21% 4 4 72% 2 2 62% 0 0 Du lịch Vận tải Các dịch vụ khác 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: Tổng Cục Thống kê I.3. Chương trình cải cách cơ cấu I. 3.1. Các Biện Pháp Cải Cách Nhằm Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh 21. Đánh giá năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia cho thấy Việt Nam đang tụt lại phía sau so với các nền kinh tế tương đương. Thứ hạng của Việt Nam trong khảo sát Môi trường Kinh doanh đã tụt từ vị trí 72 năm 2014 xuống vị trí 78 năm 20157 trong số 189 nền kinh tế.8 Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam vẫn thấp hơn mức trung bình của các quốc gia ASEAN-4 do những cải thiện chậm chạp về khung thể chế, cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh (Hình 1.15). Bên cạnh đó là những tồn tại liên quan tới thành lập doanh nghiệp, thời gian nộp thuế, cơ chế bảo vệ nhà đầu tư, tiếp cận điện năng và xử lý khi mất khả năng thanh toán. 7 Bắt đầu báo cáo Môi trường Kinh doanh năm nay (2015), xếp hạng dựa trên khoảng cách tới điểm cao nhất thay vì xếp hạng theo bách phân vị (nhóm 25%). 8 Điểm xếp hạng của Việt Nam chỉ tăng ở mức khiêm tốn từ 64,1 điểm theo Khảo sát Môi trường Kinh doanh 2014 lên 64,4 điểm năm 2015. 24 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Hình 1.15: Xếp hạng Môi trường Kinh doanh Xếp hạng chung Xếp hạng theo khía cạnh đánh giá Malaysia Khởi nghiệp 2014 Xin cấp điện Cấp phép xây..... 2015 Thái Lan Xử lý vỡ nợ, Đăng ký tài sản 72 phá sản Việt Nam 78 Thực thi Vay vốn Philippines hợp đồng Thương mại Bảo vệ nhà đầu tư Indonesia Nộp thuế 0 38 76 113 151 189 Việt Nam ASEAN-4 (Trung bình) Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2015. ASEAN-4 bao gồm In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin và Thái Lan 22. Tuy nhiên, trong năm 2014 Chính phủ đã đưa ra một loạt biện pháp quan trọng để cải thiện môi trường và điều kiện kinh doanh nhưng chưa được phản ánh trong xếp hạng Môi trường Kinh doanh mới nhất. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19 (ngày 18 tháng 3 năm 2014) ưu tiên rút ngắn thời gian xử lý và hoàn thiện thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí hành chính, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (Hộp 1). Luật Phá sản (sửa đổi) được thông qua vào tháng 7 năm 2014 là một nỗ lực khác của Chính phủ nhằm cải thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp. Đạo luật này đã đưa vào những thông lệ quốc tế bao gồm sự ra đời của các doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Hai đạo luật quan trọng khác là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư(sửa đổi) cũng đã được Quốc Hội thông qua vào tháng 11 năm 2014. Những đạo luật này được kỳ vọng sẽ cải thiện công tác quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp và cụ thể là DNNN, gỡ bỏ gánh nặng hành chính và cấp phép, làm rõ tiêu chí áp dụng đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện cũng như mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho khu vực tư nhân. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 25 Hộp 1: Các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia Nghị quyết 19 của Chính phủ Việt Nam đặt ra các mục tiêu cụ thể như sau: • Hợp lý hóa thủ tục và rút ngắn thời gian cần thiết để thành lập doanh nghiệp mới • Tiếp tục cải cách quy trình xử lý hồ sơ và thủ tục nộp thuế, rút ngắn thời gian các doanh nghiệp phải tiêu tốn để hoàn thành thủ tục nộp thuế • Rút ngắn thời gian tiếp cận điện năng đối với các doanh nghiệp và dự án đầu tư • Cải thiện quy định về quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ nhà đầu tư theo hướng tăng cường bảo vệ quyền sở hữu, nhà đầu tư, cổ đông thiểu số theo chuẩn mực quốc tế; • Tạo thuận lợi, bảo đảm bình đẳng, công khai, minh bạch trong tiếp cận tín dụng theo cơ chế thị trường giữa các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; • Hợp lý hóa các quy trình, đơn giản hóa các yêu cầu liên quan tới hồ sơ, thủ tục xuất nhập khẩu và thủ tục hải quan, giảm thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu • Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp; • Công khai hóa, tăng cường minh bạch hóa thông tin về tình hình hoạt động, tài chính doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế tốt nhất. Tuân thủ theo hướng dẫn của Chính phủ về cắt giảm thời gian nộp thuế lên ngang với mức trung bình của ASEAN vào năm 2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 119 (ngày 25 tháng 8 năm 2014) sửa đổi nhiều quy định hiện tại về cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính về thuế:  Quản lý thuế: Điều chỉnh Thông tư số 156 về quản lý thuế, đơn giản hóa và hợp lý hóa các mẫu kê khai thuế  Thuế thu nhập cá nhân (PIT): Điều chỉnh Thông tư số 111 về thuế thu nhập cá nhân  Đối với cá nhân là công dân của quốc gia đã ký kết Hiệp định với Việt Nam về tránh đánh thuế hai lần và cá nhân cư trú tại Việt Nam, nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân được tính từ tháng đầu tiên đến Việt Nam thay vì tính từ tháng 1 của năm đó theo quy định trước đây.  Thuế Giá trị Gia tăng (GTGT): Điều chỉnh Thông tư số 219 về GTGT:  Không áp thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu đã xuất khẩu nhưng bị phía nước ngoài trả lại  Hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng nội bộ phục vụ cho sản xuất kinh doanh được miễn thuế GTGT   Không phải xuất hóa đơn và kê khai thuế GTGT trong trường hợp xuất máy móc, thiết bị, vật tư và hàng tồn kho dưới hình thức cho vay hoặc hoàn trả   Doanh nghiệp mới không cần phải đầu tư một tỷ đồng mua sắm tài sản để được đăng ký áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT. Bên cạnh đó, sau khi hết năm dương lịch đầu tiên ngay cả trong trường hợp không đạt doanh thu từ một tỷ đồng trở lên, doanh nghiệp vẫn có thể đăng ký phương pháp khấu trừ thuế nếu đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán và hóa đơn, chứng từ  Không cần nêu cụ thể thời gian chậm thanh toán trong danh mục hàng hóa hoặc dịch vụ mua sắm   Bên mua không cần phải đăng ký hay thông báo cho cơ quan thuế tài khoản tiền vay tại các tổ chức tín dụng dùng để thanh toán cho nhà cung cấp  Hóa đơn: Sửa đổi Thông tư số 39 về hóa đơn hàng hóa và dịch vụ:   Trường hợp doanh nghiệp sử dụng phần mềm kế toán theo hệ thống phần mềm của công ty mẹ là Tập đoàn đa quốc gia thì chỉ tiêu “đơn vị tính” được sử dụng bằng tiếng Anh. Trường hợp kinh doanh dịch vụ thì trên hóa đơn không cần thiết phải có chỉ tiêu “đơn vị tính”.   Doanh nghiệp mới có thể báo cáo việc sử dụng hóa đơn hàng quý thay vì hàng tháng theo quy định trước đây.  Thuế Thu nhập Doanh nghiệp (CIT): Sửa đổi Thông tư số 78 về Thuế thu nhập Doanh nghiệp:  Hàng hóa và dịch vụ dùng cho nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không phải tính vào doanh thu chịu thuế. Nguồn: Chính phủ, Bộ Tài chính và KPMG 26 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM I.3.2. . Mặc Dù Tạo Đà Lớn Hơn Song Tiến Trình Cải Cách Doanh Nghiệp Nhà Nước (DNNN) Vẫn Chưa Đạt Kết Quả So Với Mục Tiêu Đề Ra 23. Quá trình cổ phần hóa DNNN đã tạo được đà. Năm 2013, Chính phủ đã cổ phần hóa 74 DNNN (tăng gấp 3 lần số lượng DNNN cổ phần hóa năm 2011 và 2012) và vẫn tiếp tục duy trì đà này trong năm 2014. Đến cuối tháng 9 năm 2014, đã có 71 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong đó 35 doanh nghiệp hoàn thành phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) trên các thị trường chứng khoán. Gần đây, công cuộc cổ phần hóa đã có sự tham gia ngày càng tăng của các DNNN lớn như Vietnam Airlines, Petro Vietnam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex). Chính phủ đặt mục tiêu cổ phần hóa 200 DNNN vào năm 2014 và 232 vào năm 2015. Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu đầy tham vọng này dự báo sẽ rất khó khăn trong bối cảnh kinh tế phục hồi chậm và mức độ phức tạp của các DNNN thuộc diện phải cổ phần hóa. 24. Kế hoạch DNNN thoái vốn khỏi các “lĩnh vực rủi ro” ngoài ngành đã được phát động mặc dù tốc độ chậm hơn so với dự kiến. Việc thực thi Nghị định 71 quy định các DNNN ngoài lĩnh vực ngân hàng thoái vốn hoàn toàn khỏi 5 lĩnh vực rủi ro ngoài ngành vào năm 2015 đã được được một số kết quả bước đầu. Tính đến cuối tháng 9 năm 2014, các DNNN đã thoái được 5 nghìn tỷ đồng vốn Nhà nước đầu tư ngoài ngành, đạt gần 21% kế hoạch. Để đạt được bước tiến trong tương lai đòi hỏi phải tăng cường công khai thông tin, giám sát kết quả thực hiện, cải cách quản trị doanh nghiệp, minh bạch hóa quy trình thoái vốn và phân chia trách nhiệm giải trình rõ ràng hơn trong công tác giám sát DNNN. 25. Khung pháp lý cho cải cách DNNN tiếp tục được củng cố. Nghị quyết số 15 ban hành gần đây đề cập tới kế hoạch hành động toàn diện để đẩy mạnh thoái vốn DNNN. Hai đạo luật quan trọng có liên quan gồm Luật Quản lý và Sử dụng Vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), cũng đã được thông qua tại kỳ họp Quốc hội diễn ra vào tháng 11 năm 2014. Luật Quản lý và Sử dụng Vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh được kỳ vọng sẽ cải thiện trọng tâm, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong đầu tư và quản lý vốn Nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, và mức độ giám sát hiệu quả hoạt động DNNN của Quốc hội và các bên liên quan khác. Đạo luật này quy định việc đầu tư và sử dụng vốn Nhà nước vào hoạt động sản xuất và kinh doanh. Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) khuyến khích tinh thần làm chủ doanh nghiệp, tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch hơn và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả loại hình doanh nghiệp. 26. Tăng cường tính minh bạch và công khai kết quả hoạt động kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp là một cấu phần quan trọng của quản trị doanh nghiệp. Về phương diện này, Chính phủ tiếp tục yêu cầu thực hiện nghiêm túc một loạt các quy định pháp lý như Nghị định 61/2013, Nghị định 69/2014 và Quyết định số 36/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Nghị đinh 61 yêu cầu các doanh nghiệp báo cáo chi tiết một năm 2 lần (4 lần đối với các DNNN quy mô lớn) cho các bộ ngành chủ quản về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hàng năm, Bộ Tài chính phải báo cáo cho Quốc hội tình hình sản xuất kinh doanh chung của tất cả các DNNN. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước cũng được yêu cầu công khai thông tin về hoạt động kinh doanh, kết quả tài chính và quản trị. Quyết định 36 và Nghị định 69 còn yêu cầu các DNNN phải công khai thêm các thông tin như chiến lược và kế hoạch phát triển dài hạn cũn như thường xuyên cập nhật các tông tin về quản trị doanh nghiệp. Các quy định pháp lý này đều yều câu việc công bố thông tin phải công khai, gồm cả việc đăng tải thông tin trên các cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp. Đã có những tiến bộ bước đầu trong việc DNNN thực hiện báo cáo cho bộ ngành chủ quản và Bộ Tài Chính theo yêu cầu. Tuy nhiên, việc công khai đại chúng các thông tin này vẫn còn hạn chế. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 27 27. Chính phủ đã công bố tầm nhìn chính sách rõ ràng về cải cách DNNN. Tuy nhiên, triển khai đồng bộ sẽ là chìa khóa then chốt. Các mục tiêu cổ phần hóa cần được đưa vào kế hoạch triển khai cụ thể, khả thi và có thời hạn rõ ràng. Điều này bao hàm khối lượng công việc kỹ thuật lớn và nỗ lực kiên quyết trong xác định thứ tự ưu tiên. Ngoài ra, quá trình ra quyết định cổ phần hóa DNNN vẫn tốn nhiều thời gian (Hộp 2) và phải được đơn giản hóa để có thể triển khai một cách nhanh chóng và chắc chắn các hành động mang tính quyết định. Hộp 2: Tại sao quá trình cổ phần hóa DNNN tốn nhiều thời gian? Quy trình pháp lý cổ phần hóa DNNN Thời gian STT Bước cụ thể (tháng) 1. Bộ ban hành quyết định về cổ phần hóa DNNN T 2. Bộ ban hành quyết định về thành lập Ủy ban Chỉ đạo cổ phần hóa T 3. Bộ ban hành quyết định về phê duyệt giá trị DNNN T+9 4. Tổ chức họp cán bộ công nhân viên bất thường để thông qua kế hoạch cổ phần hóa T+10 5. Thủ tướng ra quyết định phê duyệt kế hoạch cổ phần hóa T+12 Bộ ban hành quyết định phê duyệt giá ban đầu của đợt phát hành cổ phiếu lần 6. T+12 đầu (IPO) và/hoặc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược 7. Thông báo tổ chức IPO T+14 8. Bộ thông báo quyết định phê duyệt giá cổ phiếu bán ra cho cổ đông chiến lược T+14 9. Ký hợp đồng giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư chiến lược T+14 10. Tổ chức IPO trên Thị trường Chứng khoán (Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh) T+15 11. Tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông lần đầu T+16 12. Nhận giấy phép đăng ký doanh nghiệp mới T+17 Nguồn: Stoxplus I.3.3. Cần đẩy nhanh hơn nữa cải cách trong lĩnh vực ngân hàng 28. Bổ sung thanh khoản đã giúp giảm áp lực lên lĩnh vực ngân hàng mặc dù cần đạt được tiến độ triển khai những cải cách cơ cấu quan trọng hơn. Huy động vốn vẫn tăng trưởng mạnh - tăng 12% (so với cùng kỳ năm trước) tính đến cuối tháng 10 đã phản ánh niềm tin của người dân vào khu vực vực ngân hàng. Mặt khác, diễn biến này còn cho thấy người gửi tiền ít có các lựa chọn đầu tư trong bối cảnh phục hồi ảm đảm của thị trường bất động sản và chứng khoán. Trong năm, lãi suất cho vay trung bình đã giảm 1-1,5 điểm phần trăm do Ngân hàng Nhà nước hạ trần lãi suất huy động tiền đồng (kỳ hạn dưới 6 tháng) xuống 6% và mức trần lãi suất 0.75% đối với huy động bằng đô la. Trong 9 tháng đầu năm, Kho bạc Nhà nước đã phát hành gần 210 nghìn tỷ đồng trái phiếu (xấp xỉ 10 tỷ đô la), cao hơn 1,45 lần so với cùng kỳ năm 2013. 28 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 29. Công tác xử lý nợ xấu trong hệ thống vẫn là vấn đề quan ngại chính cho dù các cơ quan chức năng đã áp dụng phương pháp xử lý nợ “đa chiều”. Vào tháng 9 năm 2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thông báo giá trị nợ xấu xử lý đạt 249 nghìn tỷ đồng so với con số 464 nghìn tỷ đồng tại thời điểm tháng 9 năm 2012. Kể từ khi thành lập vào tháng 7 năm 2013 tới nay Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) đã mua lại khối lượng nợ xấu đáng kể (khoảng 90 nghìn tỷ đồng hay xấp xỉ 4,2 tỷ đô la). Tuy nhiên, VAMC vẫn chưa đưa ra được một chiến lược rõ ràng và khả thi để giải quyết số nợ xấu đã mua một cách hiệu quả. Mặt khác, nỗ lực của VAMC trong hoạt động xử lý nợ còn đang bị cản trở do thiếu khung pháp lý liên quan tới phá sản và sở hữu tài sản nhằm bảo vệ VAMC và các ngân hàng thương mại tránh khỏi những kiện tụng pháp lý trong trường hợp gây ra tổn thất tiềm ẩn cho Nhà nước khi chưa thể thiết lập một cơ chế thị trường xử lý nợ xấu rõ ràng. Câu hỏi về quy mô nợ xấu thực tế vẫn chưa được giải đáp triệt để mặc dù Thông tư số 02 và 09 về phân loại và dự phòng tổn thất nợ vay ra đời là một bước đi đúng hướng. Tuy nhiên, hiệu lực thực thi đầy đủ Thông tư số 02 đã hoãn lại tới tháng 4 năm 2015. 30. Tốc độ tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng chậm hơn so với kỳ vọng, đặc biệt là quá trình hợp nhất trong ngành vực ngân hàng. Mặc dù vẫn duy trì áp trần sở hữu nước ngoài ở mức 30% (theo cam kết của Việt Nam với WTO), Nghị định số 01 ban hành tháng 1 năm 2014 cho phép mức sở hữu cao hơn trong những trường hợp đặc biệt theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu 6-7 thương vụ Mua lại & Sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực ngân hàng trong năm 2014 và giảm 50% số lượng ngân hàng thương mại trong vòng 3 năm tới. Song trong năm nay vẫn chưa có thương vụ M&A mới nào. Một tín hiệu tốt là không có thương vụ M&A nào trong quá khứ được báo cáo là tạo ra sự xáo trộn lớn tới hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng và điều này tạo ra niềm tin vào hệ thống. Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định 51/2014/QĐ-TTg (ngày 15/9/2014) quy định một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của DNNN. Một trong những ưu tiên của Quyết định này là tạo ra nhiều phương án lựa chọn cho các DNNN thoái vốn khỏi lĩnh vực ngân hàng. 31. Tính công khai và minh bạch của hệ thống đã được cải thiện song vẫn chưa ngang bằng so với các quốc gia khác trong khu vực. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bày tỏ ý định tạo ra bước tiến trong vấn đề này khi xem xét điều chỉnh Thông tư số 35/2011/TT-NHNN về tiết lộ dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, để hiểu rõ hơn về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, vào đầu năm nay Cơ quan Giám sát Ngân hàng đã bắt đầu tiến hành một đợt kiểm toán đặc biệt về hiệu quả hoạt động danh mục và cơ cấu sở hữu của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đợt kiểm toán này vẫn dựa trên hệ thống phân loại nợ sẽ được thay thế (Quyết định số 493) và các chuẩn mực trong nước không thể cung cấp dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy để có thể so sánh hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực. Chuyên mục đặc biệt của Báo cáo này tập trung vào đánh giá chi tiết hơn các vấn đề mang tính cấu trúc trong lĩnh vực ngân hàng. I.4.Triển Vọng Trung Hạn: Tăng Trưởng Ở Mức Khiêm Tốn Và Các Rủi Ro Bất Lợi 32. Những dự báo trung hạn phản ánh mức tăng trưởng GDP khiêm tốn và tiếp tục củng cố ổn định kinh tế vĩ mô. Kịch bản cơ sở giả định kích cầu chính sách ở mức khiêm tốn và đạt được tiến độ hơn nữa về cải cách cơ cấu trong khu vực DNNN và tài chính. Tăng trưởng GDP theo kịch bản cơ sở dự ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 29 báo đạt 5,6% trong năm 2014 nhờ mở rộng khu vực sản xuất, thương mại và hoạt động ổn định của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tăng trưởng trong trung và dài hạn phụ thuộc vào nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh cho khu vực tư nhân trong nước, trong đó chú trọng cải thiện tiếp cận nguồn vốn, tạo sân chơi bình đẳng so với khu vực DNNN, giảm gánh nặng hành chính, cải thiện hạ tầng thương mại và logistics cũng như tạo ra lực lượng lao động có trình độ cao hơn. 33. Áp lực lạm phát dự báo sẽ dịu đi trong trung hạn. Mặc dù chính sách tiền tệ nới lỏng và tiêu dùng cá nhân cuối năm có thể dẫn tới biến động giá cả nhưng dự kiến lạm phát vẫn ở mức thấp do nguồn cung mạnh và giá cả hàng hóa quốc tế tương đối ổn định. Tài khoản thương mại và vãng lai dự kiến đạt thặng dư trong năm 2014 mặc dù ở mức thấp hơn so với năm 2013. Chính phủ cam kết sẽ củng cố tài khóa và giảm nợ, trong đó cải thiện thu ngân sách, kiểm soát chi tiêu thường xuyên tốt hơn và nâng cao hiệu quả đầu tư công là những lĩnh vực quan trọng. Bảng 1.3: Một số chỉ số kinh tế ngắn hạn 2012 2013e 9M-14e 2014f 2015f Tăng trưởng GDP (%) 5.3 5.4 5.6 5.6 5.6 Chỉ số giá tiêu dùng (%, trung bình cả năm) 9.1 6.6 3.6 4.5 5.0 Cán cân thanh toán vãng lai (% GDP) 6.0 5.6 4.5 4.1 3.3 Thâm hụt ngân sách (% GDP, tính theo GFS) -4.8 -5.6 -5.5 -6.6 -5.9 Nợ công (% GDP, tính theo GFS) 48.5 51.6 n/a 54.8 57.1 Nguồn: Tổng Cục Thống kê, IMF và Ngân hàng Thế giới 34. Triển vọng trung hạn vẫn hàm chứa những rủi ro kinh tế vĩ mô tiềm ẩn sau: (i) tiến độ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và lĩnh vực ngân hàng tương đối chậm có thể tác động tiêu cực tới tình hình tài chính vĩ mô, suy giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra nhiều nợ công lớn. Ngược lại, tái cơ cấu, cải cách DNNN và khu vực tài chính một cách nhanh chóng và dứt khoát cần đưa Việt Nam chuyển sang một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn đồng thời tạo nền tảng cho hiệu quả và năng suất lao động cao hơn để thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn hơn; (ii) định hướng xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam đặt Việt Nam vào thế không mấy thuận lợi trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là tại các quốc gia phát triển tiêu thụ nhiều hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, xu hướng tăng lãi suất toàn cầu có thể là một vấn đề đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh còn dễ bị tổn thương của lĩnh vực ngân hàng trong nước và mức nợ cao trong nền kinh tế. 30 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 31 PHẦN II CHỦ ĐỀ CHUYÊN SÂU VỀ ĐÁNH GIÁ KHU VỰC TÀI CHÍNH VIỆT NAM Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) đưa ra một khuôn khổ tổng thể nhằm xác định các vấn đề dễ bị thương tổn của hệ thống tài chính cũng như đề xuất xây dựng các phản ứng chính sách thích hợp. Ghi nhận tầm quan trọng của chương trình này, Chính phủ Việt nam đã chủ động đề nghị Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế triển khai chương trình FSAP cho Việt Nam từ tháng 7/2012. Báo cáo Đánh giá khu vực tài chính (FSA) là phần tổng hợp của toàn bộ chương trình FSAP – trong đó đưa ra các đánh giá về sự ổn định và tiềm năng phát triển của hệ thống tài chính. Chủ đề chuyện sâu của Báo cáo Điểm Lại kỳ này giới thiệu lại các thông điệp chính của báo cáo FSA, đã được NHNNVN công bố công khai vào ngày 29 tháng Tám, 2014. Đánh Giá Khu Vực Tài Chính Việt Nam9 I. Giới thiệu và tóm tắt các khuyến nghị chính 1. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận kể từ khi chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung vào giữa những năm 1980. Chính sách đổi mới kinh tế (Đổi Mới) được công bố vào tháng 12/1986 đã đánh dấu sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường hơn với các định chế tài chính và phi tài chính tư nhân tham gia nhiều hơn. Những cải cách này đã góp phần tạo ra kết quả ấn tượng trong vòng hai thập niên vừa qua, kể từ năm 1990 mức tăng trưởng GDP hàng năm đạt trên 7% và thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên gấp ba lần. 2. Tuy nhiên, trong những năm gần đây kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại và đã bộc lộ những dấu hiệu khó khăn về tài chính và doanh nghiệp. Một vài phân khúc của khu vực doanh 9 Nhóm chuẩn bị Báo cáo bao gồm: Roberto Rocha (Ngân hàng Thế giới) và Javier Hamann (IMF), đồng trưởng đoàn, Isaku Endo, Serap Gonulal, Olivier Hassler, William Mako, C. Michael Grist, Yen Mooi, Harish Natarajan, Valeria Salomao Garcia, Martin Vazquez-Suarez, và Niraj Verma (Ngân hàng Thế giới), Rina Bhattacharya, Carlos Caceres, Nombulelo Duma, Toshi Kurosawa, Pamela Madrid, Judit Vadasz, và Mamoru Yanase (IMF), Andrea Corcoran và Vern McKinley (chuyên gia độc lập). 32 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM nghiệp có kết quả kinh doanh nghèo nàn, gặp khó khăn về tài chính và đã ảnh hưởng đến sức khỏe của hệ thống ngân hàng. Một số doanh nghiệp nhà nước (SOE) lớn đã mất khả năng thanh toán nợ và một số khác có biểu hiện vay nợ quá mức. Hệ thống ngân hàng đã tích tụ một lượng lớn nợ xấu (NPL) được ước tính một cách thận trọng là 12% trên tổng dư nợ tại thời điểm cuối năm 2012. Trong cùng giai đoạn đó, nhiều ngân hàng nhỏ đã có vấn đề về thanh khoản và khả năng thanh toán ở mức độ nghiêm trọng hơn, dẫn đến việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) phải can thiệp. Năng lực cho vay của hệ thống ngân hàng bị giảm là một trong những yếu tố đã góp phần làm cho tăng trưởng tín dụng giảm mạnh. 3. Kết quả hoạt động yếu kém của khu vực tài chính là do cách bố trí phức tạp của các yếu tố thể chế và giám sát. Các yếu tố này bao gồm một vài biểu hiện can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương vào các quyết định đầu tư và tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước (SOE) và ngân hàng thương mại nhà nước (SOCB); cấu trúc quản trị và năng lực quản trị rủi ro của các tổ chức này còn chưa đầy đủ; một số ngân hàng thương mại cổ phần (JSB) cho vay khách hàng có liên quan; cơ sở hạ tầng tài chính yếu kém, bao gồm cả các chuẩn mực báo cáo tài chính nghèo nàn; và hoạt động quản lý và giám sát tài chính có khiếm khuyết. Trong bối cảnh này, tín dụng thường tăng trưởng quá mức và được phân bổ kém hiệu quả. Kinh tế vĩ mô biến động ngày càng tăng trong 5 năm vừa qua đã làm cho tình hình thêm khó khăn và chất lượng của các khoản vay sụt giảm hơn. 4. Chính phủ đã công bố một chương trình cải cách tổng thể để xử lý những khó khăn của khu vực tài chính và doanh nghiệp. Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội (SEDP) giai đoạn 2011– 2015 được Quốc Hội thông qua vào tháng 11/2011 đã chính thức đề cập đến chương trình cải cách này. Chương trình gồm ba cấu phần chính: tái cấu trúc khu vực ngân hàng, tái cơ cấu SOE và cải cách đầu tư công. Kể từ đó, Chính phủ và SBV đã và đang nỗ lực để cụ thể hóa hơn nữa thiết kế của ba cấu phần này. Tháng 3/2012, Chính phủ đã ra quyết định phê duyệt cấu phần tái cấu trúc ngân hàng. Gần đây hơn, Chính phủ và SBV đã thành lập Công ty quản lý tài sản mới (VAMC) để xử lý NPL. Chương trình cải cách ngân hàng mang tính tổng thể nhưng các nội dung cải cách quan trọng cần được tiếp tục phát triển và thực hiện một cách nhất quán để đảm bảo khôi phục hoàn toàn khu vực tài chính. 5. Chương trình FSAP lần này đưa ra một nhóm khuyến nghị chính sách có thể sử dụng để triển khai SEDP và chương trình tái cấu trúc khu vực ngân hàng. Các khuyến nghị được chia thành ba nhóm: (i) kế hoạch xử lý khối lượng lớn NPL hiện nay, (ii) các biện pháp đảm bảo các dòng tài chính mới lành mạnh và ngăn chặn tích tụ thêm NPL; và (iii) các bước đi chính sách được thiết kế để bảo vệ khu vực tài chính trong suốt quá trình cải cách dự kiến. Đối với mỗi nhóm biện pháp, sẽ có kế hoạch xác định các điều kiện tiên quyết (giai đoạn 1) và các tiểu nhóm biện pháp cần thực hiện trong ngắn hạn (giai đoạn 2) cũng như các tiểu nhóm biện pháp có thể được thực hiện trong trung hạn (giai đoạn 3). 6. Các khuyến nghị bao gồm kế hoạch cấp vốn bổ sung, xử lý NPL, cải cách pháp lý và cải cách khác cũng như tạm thời mở rộng mạng lưới an toàn. Kiểm toán tài chính đặc biệt đối với các ngân hàng sẽ cho kết quả đánh giá chính xác về NPL, nhu cầu cấp vốn bổ sung tương ứng và thông tin quan trọng để xây dựng các đề án xử lý nợ. Kiểm toán hoạt động sẽ là cơ sở cho kế hoạch tái cấu trúc các SOCB. Xác định được các hình thức liên kết chéo chủ yếu giữa các ngân hàng và khách hàng vay sẽ cho phép giám sát rủi ro hệ thống trong quá trình cải cách. Trong giai đoạn thứ hai, các ngân hàng sẽ được cấp vốn bổ sung. Các SOCB và SOE sẽ thoái vốn tại các ngân hàng khác. Công tác chuẩn bị cho hoạt động cải cách qui định pháp lý và hệ thống giám sát cũng sẽ được thực hiện trong giai đoạn này. Một chương trình xử lý NPL rõ ràng sẽ được đưa ra trong giai đoạn thứ hai và được triển khai hoàn toàn trong giai đoạn thứ ba. Chương trình này sẽ được tiến hành theo bốn hướng, hướng thứ nhất do ngân hàng thực hiện, hướng thứ hai do một AMC tập trung thực hiện, và hai hướng bổ sung còn lại tập trung xử lý NPL của các SOE lớn và phức tạp. Đồng thời, cần thông qua áp dụng một loạt biện pháp giải phóng các ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 33 SOCB ra khỏi nhiệm vụ chính sách. Việc thực hiện chương trình cải cách thị trường vốn, cải cách cơ sở hạ tầng tài chính và các quy định tài chính sẽ được tăng cường trong giai đoạn cuối cùng này. II. Cấu trúc của Hệ thống Tài chính 7. Đối với một quốc gia có thu nhập trung bình thấp thì hệ thống tài chính của Việt Nam là lớn, với tổng tài sản lên đến 200% GDP vào năm 2011. Khu vực ngân hàng chi phối hệ thống tài chính, với tổng tài sản tương đương 183% GDP (bao gồm cả hai ngân hàng chính sách) và 92% tài sản của các định chế tài chính. Hệ thống ngân hàng có quy mô lớn so với chuẩn quốc tế xét theo tiền gửi hoặc tín dụng. Tiền gửi ngân hàng đã tăng đáng kể trong thập niên vừa qua, phản ánh tỷ lệ tiết kiệm cao, tăng trưởng kinh tế nhanh và sự phát triển chậm hơn của các công cụ tiết kiệm phù hợp khác. Đến năm 2011, tỷ lệ tiền gửi so với GDP đã vượt xa các chuẩn liên quan10 . Tỷ lệ tín dụng so với GDP cũng tăng mạnh trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 2007 – 2010 do tỷ lệ đầu tư rất cao và cũng đã vượt đáng kể các chuẩn có liên quan trong cùng thời kỳ. 8. Mặc dù có quy mô lớn so với chuẩn quốc tế nhưng sự phát triển của hệ thống tài chính trong những năm gần đây có nhiều biến động, phản ánh môi trường bất ổn bên ngoài cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô thất thường. Tăng trưởng tín dụng có diễn biến thất thường kể từ năm 2006 thể hiện qua việc tín dụng tăng đột ngột rồi giảm mạnh. Trong năm 2007, tín dụng tăng 54%/năm (tương đương 20% GDP) chủ yếu do luồng vốn vào lớn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vào cuối năm 2008, tín dụng và hoạt động kinh tế đã chậm lại do tác động của khủng hoảng toàn cầu, buộc các cơ quan chức năng phải ứng phó. Việc nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ đã gây ra một đợt bùng nổ tín dụng khác vào năm 2009 và 2010, dẫn đến một đợt thắt chặt chính sách và tín dụng giảm mạnh trong năm 2011. Lo ngại về việc có thể đã thắt chặt quá mức trong bối cảnh môi trường toàn cầu suy yếu đã đưa đến một đợt nới lỏng mạnh chính sách khác trong năm 2012 bằng cách cắt giảm lãi suất chính sách và thực hiện một nhóm các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, dù đã nới lỏng chính sách nhưng lần này tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp phản ánh chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng đã suy giảm và đòi hỏi phải giảm tỷ lệ đòn bẩy. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô có vẻ đã ổn định kể từ năm 2012 nhưng vẫn cần có một chương trình kết nối chặt chẽ để xử lý các điểm yếu của hệ thống tài chính. 9. Trong khi khu vực ngân hàng có quy mô lớn thì quy mô của các định chế tài chính phi ngân hàng và thị trường chứng khoán vẫn còn nhỏ. Các định chế tài chính phi ngân hàng (bao gồm cả quỹ tín dụng nhân dân) chỉ chiếm 17% GDP và 8% tổng tài sản của các định chế tài chính. Các công ty tài chính cung cấp tài chính dự án và tiêu dùng, đồng thời là nhóm lớn nhất trong khối các định chế tài chính phi ngân hàng với quy mô tương đương 6% GDP và 3% tổng tài sản của các định chế tài chính. Các công ty bảo hiểm chiếm 4% GDP trong khi đó các quỹ tương hỗ chỉ chiếm dưới 1% GDP và các quỹ hưu trí tư nhân là không đáng kể. Quỹ Bảo hiểm Xã hội (SSF) là nhà đầu tư thể chế duy nhất có quy mô đáng kể, chịu trách nhiệm quản lý quỹ dự trữ lương hưu tương đương 6,5% GDP. Thị trường cổ phiếu đã tăng trưởng nhanh chóng nhưng vẫn còn phát triển ở giai đoạn sơ khai. Mặc dù số lượng các công ty niêm yết trên hai sàn chứng khoán đã tăng đáng kể, chủ yếu do “cổ phần hóa” SOE, nhưng tổng giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu còn tương đối thấp, chỉ bằng 20% GDP trong năm 2011. Điều này phản ánh thực tế là các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam nhìn chung đều có quy mô nhỏ. Thị trường trái phiếu có quy mô vừa phải với trái phiếu chính phủ chiếm đa số. 10 Hai chuẩn là: (1) các giá trị dự đoán cho Việt Nam trong mô hình hồi quy dữ liệu dạng bảng cho thu nhập bình quân đầu người, quy mô dân số, mật độ dân số và hồ sơ nhân khẩu học; và (2) trung bình của bốn nước Đông Á (Indonesia, Malaysia, Philippines, và Thailand). 34 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM III. Cấu trúc và Kết quả hoạt động của khu vực ngân hàng 10. Mức độ tham gia của nhà nước vào lĩnh vực ngân hàng là lớn và theo cả hình thức liên kết sở hữu trực tiếp và gián tiếp. Vào cuối năm 2011, 5 ngân hàng thương mại nhà nước (SOCB) chiếm gần 40% tài sản và 48% tiền gửi khách hàng của khu vực ngân hàng. Tổng mức tham gia của nhà nước vào hệ thống ngân hàng thương mại còn lớn hơn nếu tính cả phần vốn góp của nhà nước, SOE và SOCB tại một số ngân hàng cổ phần (JSB) trong số 34 JSB – phân khúc tăng trưởng nhanh nhất và hiện chiếm tới ½ tổng tài sản của khu vực ngân hàng. Tỷ trọng của khối ngân hàng nước ngoài trong tổng tài sản của khu vực ngân hàng thương mại vẫn còn nhỏ và ổn định ở mức 10%.11 11. Hệ thống ngân hàng cũng có đặc điểm là mức độ sở hữu chéo cao giữa các ngân hàng với nhau và giữa các ngân hàng và doanh nghiệp. Mức độ sở hữu này bao gồm sở hữu các JSB bởi các ngân hàng khác (cả SOCB và JSB khác) và bởi các tập đoàn kinh tế (gồm cả SOE) với cấu trúc chưa hiểu rõ được. Cơ cấu cổ đông phức tạp đã gây ra những quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và hoạt động cho vay bên có quan hệ/liên quan nhằm tài trợ cho các dự án thiếu minh bạch. Cơ cấu này cũng đã dẫn đến tình trạng phóng đại vốn do cho vay mua cổ phần lẫn nhau và đã tạo điều kiện lách các quy định an toàn như giới hạn tập trung tín dụng. 12. Kết quả hoạt động của khu vực ngân hàng đã xấu đi trong những năm gần đây và có lẽ còn kém hơn so với báo cáo. ROA bình quân của tất cả các ngân hàng giảm từ 1,8% năm 2007 xuống 0,5% năm 2012, trong đó con số 0,5% có vẻ là đã bị phóng đại do chất lượng số liệu tài chính còn thấp. Nói một cách khái quát hơn thì chất lượng số liệu tài chính thấp đã ảnh hưởng đến việc đo lường một cách chính xác hầu hết các chỉ số hiệu quả hoạt động như ROA, tỷ lệ NPL và các hệ số vốn. Yếu kém về số liệu bắt nguồn từ một số yếu tố như các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng còn chưa thỏa đáng (bao gồm cả việc phân loại các khoản nợ được tái cơ cấu), định giá tài sản thế chấp không đáng tin cậy và phân loại một số tài sản nhất định là thanh khoản cần đặt dấu hỏi. Thêm vào đó, còn có những quan ngại về việc xác định giá trị các tài sản phi tín dụng lớn trên bảng cân đối của các ngân hàng, đặc biệt là xác định chưa đầy đủ các khoản đầu tư (một số khoản liên quan đến các nghiệp vụ nhằm báo cáo thấp NPL) và thiếu minh bạch khi báo cáo về các hạng mục khác như các khoản phải thu. Như đã trình bày ở trên, do tình trạng sở hữu chéo phổ biến nên hoạt động cho vay góp vốn mua cổ phần lẫn nhau cũng là nội dung cần lưu ý. 13. Chất lượng danh mục cho vay và mức vốn của một số ngân hàng là những vấn đề rất đáng lo ngại. Do những yếu kém về số liệu đã nêu ở phần trên nên số liệu báo cáo tài chính đã được điều chỉnh trên cơ sở các giả định không quá chặt chẽ 12. Việc điều chỉnh như vậy đã làm cho tỷ lệ NPL tăng lên 12% vào cuối năm 2012 và làm giảm mạnh tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của một số ngân hàng. Kết quả kiểm định sức chịu đựng sử dụng các số liệu đã điều chỉnh cho thấy các ngân hàng có nguy cơ gặp phải rủi ro tín dụng và rủi ro tập trung cao. Phân tích độ nhạy với những thay đổi về giả định đã xác nhận các phát hiện chính mặc dù chất lượng số liệu tài chính còn thấp và đòi hỏi phải dựa vào các giả định để tính toán đồng nghĩa với việc các kết quả ước tính khi kiểm tra sức chịu đựng có khoảng tin cậy rộng. 11 Mức độ tham gia của Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng thậm chí còn lớn hơn nữa nếu tính đển cả hai ngân hàng phát triển – Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) và Ngân hàng Chính sách Xã hội (VBSP). 12 Các điều chỉnh bao gồm: phân loại lại các khoản nợ trong nhóm đầu, khấu trừ mức phỏng đoán về giá trị tài sản thế chấp và các giả định khác để phản ảnh việc định giá quá cao các khoản đầu tư và các tài sản khác ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 35 14. Phân tích bổ sung về khu vực doanh nghiệp niêm yết cũng cho kết quả nhất quán. Rất nhiều ngành kinh tế đang hoạt động kém, đặc biệt là các ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, bất động sản, tài nguyên thô và điện nước dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế. Có điểm thú vị là dù các SOE niêm yết là nhóm có kết quả hoạt động tốt nhất của khu vực SOE nhưng nhóm này vẫn có vẻ gặp nhiều khó khăn hơn so với các đối tác tư nhân niêm yết của họ. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn có chất lượng tín dụng cơ bản thấp. So với các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp này có thể gặp khó khăn trong việc trả nợ vì vay nợ nhiều hơn, có trạng thái thanh khoản yếu hơn và tập trung hoạt động vào các ngành công nghiệp có hiệu quả thấp. IV. Phát triển Thị trường vốn A. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 15. Quy mô thị trường trái phiếu trong nước còn khiêm tốn và chủ yếu là trái phiếu chính phủ. Tổng giá trị trái phiếu hiện hành bằng khoảng 15% GDP, với gần 90% là trái phiếu chính phủ (bao gồm trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và một lượng nhỏ trái phiếu phát hành bởi chính quyền địa phương). Trái phiếu Chính phủ thường xuyên được phát hành có kỳ hạn ba và năm năm với thời gian đáo hạn trung bình khoảng 3,2 năm. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng trong vài năm qua, nhưng vẫn trong giai đoạn sơ khai. 16. Bộ Tài chính đã có những bước đi quan trọng đầu tiên hướng tới phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, nhưng vẫn còn nhiều việc cần phải làm để xây dựng một đường cong lãi suất chuẩn đáng tin cậy. Các yếu tố hạn chế sự phát triển của thị trường trái phiếu bao gồm thị trường sơ cấp còn thiếu hiệu quả (mặc dù đã có những sáng kiến và cải thiện đáng khích lệ gần đây, song vẫn còn quá nhiều đợt phát hành, không có khối lượng tới hạn của các đợt phát hành trong các mức chuẩn chính, hệ thống môi giới sơ cấp mới được đưa vào gần đây và vẫn chưa được kiểm định); thị trường thứ cấp thanh khoản thấp; thiếu cơ sở nhà đầu tư tổ chức vững chắc (ngân hàng nắm giữ khoảng 80% lượng trái phiếu chính phủ hiện hành); và thiếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ thị trường cần thiết. 17. Chính phủ gần đây đã phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu và kế hoạch thực hiện. Lộ trình dựa vào năm trụ cột, bao gồm khuôn khổ chính sách, thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, cơ sở nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng, và các dịch vụ hỗ trợ thị trường. Chính phủ đang thành lập một ủy ban do MOF chủ trì với sự tham gia của SBV và các bộ ngành hữu quan khác để triển khai lộ trình trong những năm còn lại của thập kỷ này. Lộ trình này tập trung vào thị trường trái phiếu Chính phủ, đây là điều kiện tiên quyết để phát triển một cách lành mạnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Những nỗ lực này là đáng khích lệ vì thị trường trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình và trái phiếu đảm bảo trả lãi có thể giúp các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và ngân hàng mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, đồng thời cũng góp phần tạo nên sự ổn định của hệ thống tài chính. 18. Thị trường cổ phiếu có đặc trưng là số lượng các công ty niêm yết lớn nhưng giá trị vốn hóa bình quân thấp. Hai sở giao dịch, Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội bắt đầu hoạt động từ năm 2000 và 2005, hiện đã có khoảng 700 công ty niêm yết, một con số lớn bất thường đối với các thị trường vốn non trẻ và mức thu nhập như Việt Nam. Số lượng công ty niêm yết tăng nhanh chóng chủ yếu do “cổ phần hóa” các SOE trước đây thông qua chào bán ra công chúng lần đầu (IPOs). Khoảng một phần ba số công ty niêm yết là công ty do nhà nước nắm cổ phần chi 36 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM phối. Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSX) là thị trường cổ phiếu chính cho các công ty lớn, niêm yết 302 công ty và 6 quỹ đóng tính đến cuối năm 2011. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) là thị trường trái phiếu sơ cấp, vận hành thị trường cổ phiếu niêm yết 396 công ty (có qui mô nhỏ hơn so với các công ty niêm yết trên HSX), đồng thời bao gồm sàn giao dịch UpCom, nơi diễn ra giao dịch của 135 công ty đại chúng chưa niêm yết. Dù UpCom đã đi vào hoạt động, cổ phiếu của rất nhiều công ty đại chúng chưa niêm yết khác vẫn tiếp tục được giao dịch ngoài thị trường chính thức. 19. Trong khi thị trường cổ phiếu từ trước đến nay được xem như một kênh phục vụ cho quá trình “cổ phần hóa”, thị trường này còn có tiềm năng thực hiện vai trò có ý nghĩa hơn. Tổng giá trị vốn hóa thị trường vào khoảng 20% GDP trong năm 2011, khá gần với mức dự đoán cho Việt Nam nhưng thấp hơn nhiều so với các thị trường Đông Á khác. Thực tế là dù có một số lượng lớn các công ty niêm yết nhưng mức vốn hóa thị trường tương đối nhỏ cho thấy hầu hết các công ty niêm yết có quy mô nhỏ. Nhiều SOE có triển vọng tốt hơn chưa được niêm yết trên thị trường, và các công ty gia đình vẫn còn lưỡng lự khi cân nhắc liệu có nên tuân thủ các yêu cầu về tăng cường công bố thông tin khi tham gia thị trường niêm yết. Chất lượng và tính đa dạng của các công ty niêm yết có thể được cải thiện bằng cách cổ phần hóa một số công ty lớn, có tiềm năng hoạt động tốt hơn và đang tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược để cải thiện việc quản trị và hiệu quả hoạt động. Chiều sâu thị trường, tính thanh khoản và phương pháp xác định giá cũng có thể được cải thiện bằng cách xây dựng cơ sở nhà đầu tư tổ chức và tăng cường yêu cầu phải niêm yết trên thị trường đại chúng đối với các đợt phát hành ra công chúng. Cơ sở nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam rất mỏng, và việc chỉ có đa số các nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia dẫn tới câu hỏi về chất lượng của quá trình xác định giá. Về bảo vệ khách hàng, những vấn đề đáng quan tâm là công tác công bố thông tin đáng tin cậy, kiểm soát giao dịch của bên có liên quan, bảo vệ vốn của khách hàng và khả năng bảo toàn tài chính của các công ty cung cấp dịch vụ môi giới giao dịch. B. CÁC NHÀ ĐẦU TƯ THỂ CHẾ 20. Thị trường quỹ tương hỗ nhỏ cho thấy triển vọng tăng trưởng khả quan, nhưng vấn đề then chốt là cần phải tăng cường tính chắc chắn của khuôn khổ pháp lý và xây dựng lòng tin của thị trường. Cho đến gần đây, ngành này chỉ giới hạn trong số 23 quỹ đóng quản lý giá trị tài sản chỉ bằng 0,4% GDP năm 2011. Tuy nhiên, văn bản pháp qui mới được ban hành vào tháng 12/2011 đã cho phép hai quỹ mở đầu tiên chào bán vào đầu năm 2013. Các quỹ chuyên đầu tư trái phiếu và các quỹ đầu tư theo chỉ số VN30, chỉ số gồm 30 cổ phiếu hàng đầu của HSX, đang trong giai đoạn lập kế hoạch. Các qui định liên quan có vẻ khá toàn diện, tuy nhiên việc định giá và phân phối chứng chỉ quỹ cần phải được giám sát chặt chẽ. Do các kênh phân phối quỹ được mở rộng ngoài phạm vi các công ty chứng khoán tới các ngân hàng và công ty bảo hiểm, vì vậy quan trọng là việc công bố thông tin tại thời điểm chào bán phải làm rõ rằng đầu tư vào quỹ không phải là một hình thức gửi tiền ngân hàng hay một loại hình bảo hiểm. Các chương trình đào tạo nhà đầu tư và giáo dục tài chính nên được đi kèm với các nỗ lực phát triển thị trường. Việc định giá danh mục tài sản cần được nghiên cứu cẩn thận, đặc biệt cần tính tới việc rất nhiều phân khúc thị trường có tính thanh khoản thấp. 21. Thị trường bảo hiểm còn nhỏ và chủ yếu là bảo hiểm phi nhân thọ. Đến cuối năm 2011, có tổng cộng 43 công ty bảo hiểm hoạt động, bao gồm các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài, nhưng tổng tài sản chỉ bằng khoảng 4% GDP và tổng phí bảo hiểm khoảng 1,8% GDP năm 2011. Bảo hiểm phi nhân thọ chiếm thị phần lớn nhất trong thị trường bảo hiểm (khoảng 56% phí bảo hiểm), với mảng kinh doanh chính là bảo hiểm xe cơ giới, bao gồm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với bên thứ ba (MTPL). Phân khúc này có thể cần trải qua một chương trình tái cấu trúc lớn. Một số lượng lớn xe gắn máy và ô tô tham gia giao thông không có bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm và dự phòng bồi thường bảo ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 37 hiểm không phản ánh đúng mức các nhân tố rủi ro cơ bản do không được tính dựa trên các đặc điểm rủi ro cơ bản và số liệu thống kê. 22. Dựa trên tỉ trọng của lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và MTPL, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (ISA) nên áp dụng phí bảo hiểm dựa trên rủi ro và hạn chế gian lận bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới nói chung và bảo hiểm MTPL nói riêng. Việc áp dụng phí bảo hiểm trên cơ sở rủi ro cần được thực hiện trong toàn ngành bảo hiểm, bắt đầu từ bảo hiểm xe cơ giới và MTPL, đồng thời vẫn đảm bảo mức phí bảo hiểm đủ để duy trì khả năng chi trả của ngành. Vấn đề then chốt là phải chống gian lận trong lĩnh vực MTPL, đảm bảo rằng các công ty bảo hiểm cần hợp tác với cơ quan công an để giảm lượng xe không có bảo hiểm và cải thiện hành vi lái xe trên đường. Các cản trở khác đối với sự phát triển của ngành bảo hiểm bao gồm môi trường giám sát và quy định yếu, thiếu kỹ năng thống kê bảo hiểm và không đủ số lượng các công cụ phù hợp để hỗ trợ nghĩa vụ dài hạn của lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. 23. Dịch vụ ngân hàng kết hợp bảo hiểm đã cho thấy bắt đầu tăng trưởng, tuy nhiên lợi thế phân phối của dịch vụ này chưa được khai thác một cách có hiệu quả để tiếp cận tới bộ phận dân số chưa tham gia bảo hiểm. Các ngân hàng ở Việt Nam có mạng lưới phân phối rộng khắp có thể sẵn sàng được sử dụng như kênh phân phối bảo hiểm. Vì thế, dịch vụ này có tiềm năng đáng kể để tăng khả năng tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm cho dân chúng. Tuy nhiên, đi kèm theo đó cũng có rủi ro là ảnh hưởng quá mức của ngân hàng đối với cộng đồng, do vậy cần phải có những quy định và giám sát cẩn trọng để đảm bảo có sự bảo vệ đầy đủ đối với người mua bảo hiểm. 24. Mặc dù Quỹ hưu trí chưa nhiều, nhưng Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội (SSF) có quy mô tài sản khá lớn và có thể đóng góp hiệu quả hơn vào sự phát triển của thị trường vốn. SSF quản lý giá trị tài sản khá lớn bằng khoảng 6,5 % GDP nhưng không có chính sách đầu tư rõ ràng và danh mục đầu tư của quỹ này chủ yếu là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng và các khoản cho vay đối với các SOCB. Mặc dù còn sớm để đưa ra những thay đổi vào lúc này, nhưng do khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng nên SSF cần cân nhắc áp dụng một phương pháp mới để quản lý các quỹ của mình phù hợp với các chuẩn mực quốc tế tốt nhất sau khi hệ thống ngân hàng được tái cấu trúc xong. Phương pháp này sẽ bao gồm cả chính sách đầu tư theo nghĩa vụ nợ một cách minh bạch, rõ ràng, kết hợp với việc phân quyền quản lý tài sản. V. Tiếp cận Tài chính A. TIẾN ĐỘ MỞ RỘNG TIẾP CẬN TÀI CHÍNH 25. Tuy vẫn còn dư địa để mở rộng tiếp cận tài chính nhưng Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này. Số liệu của đợt Khảo sát Tiếp cận Tài chính do Ngân hàng Thế giới thực hiện đã cho thấy số lượng các SME và khách hàng cá nhân mở tài khoản tín dụng ở Việt Nam nhiều hơn so với các quốc gia được so sánh. Tuy nhiên theo số liệu từ Trung tâm Thông tin Tín dụng và thông tin từ các cuộc trao đổi với thành viên thị trường thì việc mở rộng tiếp cận này có thể đã bị phóng đại. Cụ thể, do đặc thù các SOE và Tập đoàn Kinh tế sở hữu nhiều công ty con dưới hình thức SME nên có thể làm sai lệch mức độ tiếp cận tài chính của SME. Hơn nữa, số liệu khảo sát doanh nghiệp của IFC thuộc WB cho thấy các công ty nhìn nhận tiếp cận tài chính là cản trở chính, và yêu cầu về tài sản thế chấp khi cho vay SME theo tỷ lệ tài sản thế chấp trên số vốn vay bằng 218%, cao hơn so với hầu hết các nước so sánh. Tỷ lệ mở tài khoản tiền gửi của Việt Nam cũng thấp hơn so với các quốc gia so sánh và mặc dù có tăng trưởng gần đây 38 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM song lĩnh vực bảo hiểm vẫn còn nhỏ. Chương trình bảo hiểm nông nghiệp do Chính phủ khởi xướng vẫn đang trong quá trình thí điểm. Cuối cùng, chất lượng, phạm vi và chiều sâu của tất cả các dịch vụ tài chính vẫn hạn chế mặc dù tiềm năng phát triển và chuyên môn hóa sản phẩm là đáng kể. 26. Tiếp cận tài chính của Việt Nam chủ yếu dựa vào sự can thiệp của các ngân hàng chính sách và một số SOCB. Các cơ quan quản lý chủ yếu dựa vào 02 ngân hàng chính sách được tài trợ từ ngân sách nhà nước là Ngân hàng Chính sách Xã hội (VBSP), Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB)13 ở phạm vi nhỏ hơn – và cả Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (VBARD), để đẩy mạnh chương trình tiếp cận tài chính. Kiểm soát giá là một đặc điểm phổ biến. Hỗ trợ ngân sách cho VBSP (và cả VDB) đã cho phép VBSP hạ lãi suất xuống dưới mức thị trường đối với các sản phẩm cho vay khách hàng thu nhập thấp theo tôn chỉ hoạt động của mình. Tại khu vực nông thôn, VBSP và VBARD chiếm đa số thị phần tín dụng. 27. Muốn đạt được những tiến bộ hơn nữa về tiếp cận tài chính đòi hòi phải tăng cường nhiều hơn cơ sở hạ tầng tài chính, cải cách thể chế và phát triển thị trường sản phẩm. Cơ sở hạ tầng được cải thiện sẽ khuyến khích tham gia rộng hơn vào lĩnh vực này. Các cơ quan quản lý có thể xem xét xây dựng các chuẩn mực báo cáo tài chính đáng tin cậy cho các SME, đảm bảo sự hài hòa giữa tính công khai và giản tiện. Có thể bắt đầu bằng việc áp dụng các chuẩn mực IFRS cho các SME. CIC nên mở rộng phạm vi thu thập số liệu đến các PCF, MFI và VBSP. Trung tâm thông tin tín dụng mới đi vào hoạt động có thể làm tăng tính cạnh tranh và nâng cao chất lượng dịch vụ đối với khách hàng. Khuôn khổ cho vay dựa trên tài sản đảm bảo cần được tăng cường như đề cập dưới đây. Mô hình thiết kế của Quỹ Bảo lãnh SME tại VDB nên được chỉnh sửa để mở rộng phạm vi đối tượng và cho phép bổ sung. Sử dụng ít chính sách kiểm soát giá14 cũng sẽ giúp loại bỏ những méo mó trong thị trường và những trở ngại có thể có đối với việc mở rộng thành viên tham gia thị trường. Những yếu kém của một số tổ chức chủ chốt phải được xử lý, bao gồm các PCF (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp, khả năng sinh lời kém và những quan ngại về khả năng thanh khoản) và hai ngân hàng chính sách. VBSP cần được tái cơ cấu để giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và có thể cung cấp các sản phẩm tài chính theo điều kiện thị trường. Những nỗ lực hơn nữa cũng cần đặt ra đối với việc phát triển thị trường sản phẩm, đặc biệt là khuyến khích tiết kiệm và tài trợ nông nghiệp. B. NHỮNG DIỄN BIẾN TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ NHÀ Ở 28. Cho vay bất động sản có mức tăng trưởng bong bóng mạnh trong những năm gần đây, nhưng trên thị trường vẫn thiếu các sản phẩm nhà ở có giá cả phải chăng hơn. Trước năm 2010, thị trường chứng kiến một giai đoạn tăng trưởng khá nóng, và SBV phản ứng bằng cách chỉ đạo các ngân hàng15 giảm tỷ lệ tăng trưởng và tỷ trọng cho vay bất động sản. Quyết định này của SBV cùng với sự suy giảm trên thị trường đã khiến hoạt động cho vay giảm sâu. Trong khi các căn hộ chung cư, nhà ở phân khúc cao cấp và văn phòng cho thuê ở tình trạng dư thừa nguồn cung, thị trường lại thiếu các sản phẩm nhà có giá cả phải chăng hơn. Chính phủ đã khởi động một chương trình kích cầu vào tháng 1/2013 theo đó yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước dành ít nhất 3% danh mục cho vay của họ để cho vay các hộ gia đình có thu nhập thấp, công chức, viên chức và các doanh nghiệp bất động sản nhằm hỗ trợ chuyển đổi các dự án cao cấp sang phân khúc phải chăng hơn. 13 VDB được phép nhận tiền gửi tiết kiệm bưu điện qui mô nhỏ sau đó sử dụng để tài trợ dự án. 14 Lý thuyết về tiếp cận tài chính chỉ ra rằng kiểm soát giá cả có thể dẫn đến các méo mó trên thị trường và cấp tín dụng, và cuối cùng là dẫn đến sự kém hiệu quả trong việc cấp tín dụng cho các đối tượng khó khăn về tài chính mà lẽ ra họ đáng được bảo vệ 15 Ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ đạo và có mức độ đa dạng hóa sản phẩm hạn chế. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 39 29. Cơ sở hạ tầng pháp lý không phải là vấn đề đáng lo ngại tuy nhiên qui trình thực thi pháp lý để xử lý các tài sản thế chấp là bất động sản rườm rà và kéo dài. Hệ thống đăng ký hoạt động khá tốt mặc dù theo báo cáo còn tồn tại một số vấn đề ở cấp tỉnh; chi phí giao dịch hợp lý, và quá trình tin học hóa đã bắt đầu triển khai. Thông thường phải mất đến 2 năm để giải quyết quyền liên quan đến tài sản thế chấp của khách hàng vay trong trường hợp là bất động sản. Dù có vẻ như mang tính cưỡng chế để hỗ trợ hình thức xử lý tự nguyện song việc trục xuất khách hàng vỡ nợ ra khỏi các bất động sản dân cư bị chấp hành án là khó thực hiện. Luật các tổ chức tín dụng cho phép các ngân hàng giữ tài sản bị thu hồi lên đến 3 năm, một khung thời gian hợp lý để xử lý tài sản đó trong điều kiện thị trường bình thường. 30. Những yếu điểm khác bao gồm thiếu thông tin, một số hoạt động cho vay mua nhà bán lẻ và mất cân đối thanh khoản. Việc định giá tài sản thế chấp là bất động sản gặp khó khăn do thiếu các dữ liệu giao dịch được tổ chức tốt cũng như không có chỉ số giá chính thức. Số liệu báo cáo không có sự nhất quán - tác động thực sự của khủng hoảng bất động sản không được phản ánh vào trong báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng và lĩnh vực này có thể đã góp phần đáng kể tạo nên NPL. Tiêu chí về khả năng chi trả còn khá lỏng lẻo và cùng với đặc tính thay đổi cũng như lịch sử biến động của lãi suất tạo ra rủi ro tín dụng về sau mà có thể trở nên nghiêm trọng hơn nếu mức lãi suất mới tăng mạnh. Đồng thời còn có sự mất cân đối về thời hạn giữa tài sản nợ và tài sản có - các tổ chức cho vay bất động sản không có nguồn huy động dài hạn ngoài các khoản cho vay do Chính phủ hoặc SBV cung cấp. 31. Chính phủ và SBV cần xem xét một số bước đi để bảo đảm tài chính nhà ở phát triển vững chắc. Có thể cải thiện tính minh bạch của thị trường bất động sản bằng cách xây dựng các chỉ số giá, tăng cường phân tích nhu cầu nhà ở, theo dõi nguồn cung trên thị trường, tạo lập các chỉ số cân bằng thị trường như mua bán giao ngay hoặc giao sau nhà xây mới, tỷ lệ tồn đọng và tốc độ bán hàng của các dự án mới. Cần có các văn bản hướng dẫn về công tác thẩm định tài sản cơ sở cũng như tăng cường yêu cầu về chuyên môn đối với các cán bộ làm công tác thẩm định. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu về cho vay bất động sản sẽ giúp cung cấp cho các cơ quan giám sát những thông tin trọng yếu, cho phép theo dõi các khoản giải ngân mới, giám sát tỷ lệ cho vay theo giá trị (LTV), tỷ lệ trả lãi trên thu nhập và NPL theo định kỳ hàng năm. 32. Các biện pháp khác bao gồm tăng cường khuôn khổ an toàn, xây dựng khuôn khổ bảo vệ người tiêu dùng và ban hành các công cụ huy động vốn dài hạn. Cần thiết kế các quy tắc bảo đảm an toàn đối với hoạt động tài trợ bất động sản thương mại và kinh doanh bất động sản. Đặc biệt, cho vay các doanh nghiệp bất động sản phải căn cứ theo khối lượng hợp đồng bán trước, chỉ số đánh giá mức độ đầy đủ về nhu cầu thực sự. Các cơ quan quản lý cần thiết lập các biện pháp an toàn nghịch chu kỳ bằng cách điều chỉnh các tham số như giới hạn cho vay theo giá trị LTV, tỷ trọng rủi ro của các khoản cho vay khác nhau, hay các yêu cầu về trích lập dự phòng. Yêu cầu các ngân hàng khi khởi tạo khoản vay với lãi suất thả nổi phải thực hiện kiểm tra sức chịu đựng và thực hiện định kỳ để có thể đánh giá một cách liên tục tác động của các cú sốc. Nghiêm cấm việc đánh giá khả năng trả nợ theo lãi suất “mồi”. Xây dựng khuôn khổ bảo vệ người tiêu dùng sẽ giúp giảm tình trạng chào bán sản phẩm sai mục đích và cho phép các hộ gia đình đưa ra các quyết định chuẩn xác hơn. Cuối cùng, việc đưa ra các công cụ huy động vốn dài hạn trên thị trường vốn sẽ không chỉ cải thiện khả năng cân đối thanh khoản của hệ thống ngân hàng mà còn cho phép có các giải pháp với lãi suất cố định hơn, từ đó giảm thiểu rủi ro tín dụng bắt nguồn từ rủi ro lãi suất mà người đi vay phải gánh chịu. 40 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM VI. Cơ sở hạ tầng tài chính A. KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN 33. Công tác báo cáo tài chính ở Việt Nam cần có một sự thay đổi quan trọng nhằm nâng cao độ tin cậy và hữu dụng cho mục đích đầu tư, quản lý và kiểm soát. Khuôn khổ kế toán hiện hành (Chuẩn mực Kế toán Việt Nam hay VAS) được xây dựng chủ yếu vào năm 2003 theo Luật Kế toán trên cơ sở tham chiếu đến khuôn khổ của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) vào thời gian đó song vẫn tồn tại những khác biệt lớn giữa 2 khuôn khổ này. VAS có xu hướng báo cáo phóng đại khả năng sinh lời, giá trị tài sản và khả năng trả nợ của các tổ chức báo cáo. Hiện nay chỉ có một số ít tổ chức nước ngoài gồm cả các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đang lập báo cáo tài chính theo IFRS (cùng với các báo cáo tài chính theo VAS). 34. Các vấn đề của VAS trở nên trầm trọng hơn do hệ thống kế toán và kiểm toán mới ở giai đoạn phát triển ban đầu và thiếu vắng văn hóa minh bạch và trách nhiệm giải trình. Hiện tại chưa có đủ số kế toán viên được đào tạo tốt để có thể lập các báo cáo tài chính đáng tin cậy. Luật Kiểm toán độc lập mới được ban hành năm 2011 quy định cơ sở pháp lý để xây dựng các nguyên tắc kiểm toán đáng tin cậy nhưng việc thực hiện trên thực tế vẫn đòi hỏi cam kết chính trị mạnh mẽ mà đến nay còn chưa rõ ràng. VAS còn thiếu các quy định bắt buộc thi hành. Các biện pháp kỷ luật đối với đơn vị không thực hiện VAS hoặc các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam theo qui định còn hạn chế.16 35. Nhìn chung, các báo cáo tài chính là không rõ ràng, đặc biệt đối với các SOE, đồng thời chất lượng của thông tin tài chính do các tổ chức tài chính cung cấp là kém. Trong trường hợp của các SOE, những yếu điểm của VAS trở nên trầm trọng hơn do có các nguyên tắc kế toán bổ sung của Bộ Tài chính đối với “khoản lỗ vốn nhà nước”. Các nguyên tắc này ảnh hưởng tới việc ghi nhận các khoản lỗ và làm mờ kết quả kinh doanh yếu kém của một số SOE. Chất lượng báo cáo tài chính của các tổ chức tài chính không đồng đều giữa các loại hình tổ chức, nhưng nhìn chung là kém, đặc biệt đối với các SOCB. Hơn nữa, chức năng giám sát tài chính vẫn còn yếu (Phần VII) và không góp phần một cách có hiệu quả vào việc cải thiện chất lượng báo cáo tài chính của các tổ chức chịu giám sát. B. BÁO CÁO TÍN DỤNG 36. Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) có vai trò phù hợp trong việc cung cấp thông tin tín dụng song vẫn đang tồn tại những bất cập đáng kể trong khuôn khổ hoạt động và quản lý của CIC. Tính đến năm 2011, CIC nắm giữ 23 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân (khoảng 30% dân số trưởng thành) và 500.000 hồ sơ công ty. Theo qui định, tất cả các tổ chức tài chính chịu sự quản lý phải báo cáo cho CIC. Một trung tâm thông tin tín dụng khác được 11 ngân hàng thành lập năm 2007 và mới chỉ được cấp phép hoạt động từ tháng 3/2013. Vẫn còn một số bất cập cản trở tính hiệu quả của hoạt động báo cáo tín dụng. Thứ nhất, các tổ chức tín dụng khi từ chối cho vay căn cứ vào thông tin từ CIC không được thông báo lý do này cho người xin vay. Thứ hai, không có cơ chế hiệu quả để buộc các tổ chức phải cập nhật thông tin một cách kịp thời và chất lượng cho CIC. Hiện tại CIC không còn cung 16 Để khắc phục những thiếu sót này, tháng 9/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định qui định những hình thức xử phạt các vi phạm nguyên tắc kế toán và kiểm toán, tuy nhiên Nghị định và mức độ thực hiện của nó chưa được đưa vào đánh giá trong Chương trình FSAP. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 41 cấp các báo cáo định kỳ bằng văn bản về chỉ tiêu giám sát cho BSA vì một thực tế đáng khen ngợi là BSA có quyền truy cập thường xuyên vào cơ sở dữ liệu của CIC. Thứ tư, từ trước đến nay chỉ có các tổ chức tài chính mới được làm thành viên trong hệ thống CIC. Việc cho phép các đối tượng khác có thông tin số liệu phù hợp tham gia hệ thống có thể giúp cải thiện cơ sở dữ liệu của CIC về cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó giúp các doanh nghiệp SME có thể vay vốn với các điều kiện tốt hơn từ các chủ nợ phi tài chính. Cuối cùng, cần bảo đảm giám sát đầy đủ toàn bộ hệ thống báo cáo tín dụng (CRS). Vì thế, Ngân hàng trung ương cần có vai trò là chủ thể giám sát CRS nhằm hỗ trợ việc phát triển các trung tâm tín dụng an toàn, hiệu quả và đáng tin cậy trong khi vẫn đảm bảo tính hiệu quả của CIC. Đồng thời, các cơ quan quản lý nên khuyến khích sự phát triển của trung tâm được cấp phép mới này, coi đó là nguồn thông tin tín dụng bổ sung quan trọng. C. QUYỀN CHỦ NỢ VÀ CƠ CHẾ PHÁ SẢN 37. Vẫn còn bất cập lớn giữa luật pháp và thực thi khuôn khổ cho vay có bảo đảm. Khuôn khổ pháp lý phân tán và không nhất quán. Tổ chức nước ngoài không thể thực sự nhận đảm bảo bằng quyền sử dụng đất (vì luật pháp Việt Nam không cho phép người nước ngoài sở hữu đất). Việc đăng ký đất đai gặp phải các vấn đề: nó dựa trên hệ thống giấy tờ thủ công và tiện ích của nó bị giảm thiểu bởi nhiều yếu tố, bao gồm khó khăn trong việc tìm tên của chủ sở hữu đã đăng ký, chất lượng thông tin công khai thấp, các thủ tục quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa hoàn thiện, đặc biệt là ở khu vực thành thị 17 . Cục Đăng ký Quốc gia Giao dịch Bảo đảm, nơi đăng ký các quyền lợi bảo đảm bằng động sản nhìn chung hoạt động tốt, mặc dù các thành viên thị trường còn nghi ngại về mức độ tin cậy và an toàn của nó. 38. Qui trình thực thi cưỡng chế hoạt động sai lệch và xử lý tài sản có vấn đề mất nhiều thời gian và khó khăn. Việc tịch biên và thanh lý tài sản của người mắc nợ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ còn nhiều vấn đề. Đối với các yêu cầu bồi thường không có bảo đảm, chủ nợ không có quyền đơn phương tịch biên tài sản của người mắc nợ. Vì không có những thủ tục tòa án rút gọn để xử lý các trường hợp thu nợ đơn giản, những người mắc nợ tinh vi sử dụng những điểm yếu này để trì hoãn một cách có chủ ý các trường hợp này. Đối với các trường hợp có bảo đảm, quyền hợp pháp của chủ nợ trong việc đơn phương tịch biên tài sản bảo đảm là không rõ ràng và trên thực tế dường như không thể tiến hành tịch biên quyền sử dụng đất nếu trên đó có tài sản liên quan. Do vậy, trong cả 2 trường hợp người cho vay phải cầu viện đến hệ thống tòa án mà thường không hiệu quả. Dù tài sản cầm cố có thể được bán trực tiếp nhưng thực hiện mà không có sự hợp tác của người mắc nợ là vô cùng khó khăn. Tài sản bảo đảm có thể được bán thông qua đấu giá, nhưng cách này thường kéo quá dài và do đó có thể làm giảm giá trị tài sản. 39. Hệ thống phá sản doanh nghiệp hoạt động sai lệch và nhiều tòa án thương mại không tạo được niềm tin cho công chúng. Việt Nam có một đạo luật phá sản hiện đại cho phép thực hiện cả hình thức thanh lý và cơ cấu lại tuy nhiên vẫn chưa hiệu quả. Trong thực tế, có rất ít trường hợp phá sản theo luật do thiếu niềm tin vào các tòa án và quy trình phá sản còn có vấn đề. Những người có liên quan thường tìm cơ hội né tránh thực hiện qui trình phá sản theo luật và phần lớn các trường hợp được giải quyết theo cách phi chính thức, mà theo đó tài sản của người mắc nợ được chuyển đổi nhiều lần, dẫn đến khó theo dõi. Đồng thời còn có những lo ngại về ảnh hưởng chính trị, trình độ 17 Thông tư 04/2013/TT-BTNMT ban hành ngày 24/4/2013 đã đưa ra một số cải thiện trong lĩnh vực này. 42 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM D. CÁC HỆ THỐNG THANH QUYẾT TOÁN 40. Trong mười năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC) đã thực hiện cải cách quan trọng đối với hệ thống thanh toán quốc gia (NPS). Cải cách bao gồm việc bắt đầu triển khai các hệ thống ứng dụng mới, hiện đại – hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) vào năm 2002 sau đó nâng cấp năm 2008; cũng như những cải cách về pháp lý và quy định. Vai trò của SBV đối với các hệ thống thanh quyết toán đã được nâng cao, đặc biệt là thông qua việc ban hành luật SBV năm 2010 và một loạt các quyết định và thông tư. Đối với việc quản lý và giám sát thị trường chứng khoán, vai trò của SSC được nâng cao thông qua việc ban hành Luật Chứng khoán năm 2006 (và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2010). Cơ sở hạ tầng thị trường tài chính có tầm quan trọng hệ thống (FMI) hiện đang triển khai tại Việt Nam18 gồm IPBS, hệ thống lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD), hệ thống lưu ký chứng khoán của SBV và hệ thống thanh toán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Ở Việt Nam hiện không có quy trình chính thức để xác định FMI nào có tầm ảnh hưởng quan trọng đến toàn hệ thống. Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam vận hành hệ thống thanh toán, quyết toán đối ứng cho các chứng khoán được giao dịch trên hai sàn. SSC và VSD đã chỉ định BIDV là ngân hàng thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán. VSD cũng đã thành lập một quỹ (Quỹ Bồi thường) để bảo đảm cho việc thanh quyết toán và một số thành viên bù trừ đã thỏa thuận trước hạn mức tín dụng với BIDV. 41. Trong khi những nỗ lực cải cách là đáng khen ngợi thì cấu trúc tổng thể của IBPS cũng như vai trò của các cơ quan quản lý vẫn còn những vấn đề cần được cải thiện19 . Khuôn khổ pháp lý còn có những lỗ hổng mà theo đó việc quyết toán dứt điểm và giao dịch không thể hủy ngang; bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản được thế chấp để được hỗ trợ thanh khoản và sự thừa nhận và đảm bảo các thủ tục như bù trừ, mới chỉ được giải quyết ở cấp độ nguyên tắc vận hành của hệ thống chứ chưa được xem xét giải quyết tương xứng ở cấp độ pháp lý. Mặc dù hệ thống IBPS có các qui trình quản lý rủi ro tuy nhiên vẫn thiếu một khuôn khổ quản lý rủi ro toàn diện, dẫn tới còn có một số quan ngại về rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động và các rủi ro phát sinh từ cấu trúc thành viên nhiều cấp. Hiện tại, thẩm quyền và trách nhiệm của nhiều cơ quan trong quản lý các FMI thiếu rõ ràng và cần phải được làm rõ và tăng cường. Mục tiêu quản lý và giám sát của SBV và SSC đối với các FMI không ăn khớp với nhau và quyền hạn của các cơ quan này không được qui định rõ ràng trong khuôn khổ pháp lý. Các cơ quan quản lý nên thực hiện các nguyên tắc CPSS-IOSCO cho Cơ sở Hạ tầng Thị trường Tài chính (PFMIs) và cần xem xét thực hiện chính thức đánh giá về bố trí cán bộ và trình độ năng lực phù hợp với hoạt động giám sát. Cuối cùng, SBV và MOF cần nâng cấp các Biên bản ghi nhớ đã xây dựng cơ chế phối hợp giám sát. Ngoài ra, một số khuyến nghị về tổng thể thị trường cũng được đưa ra. Hệ thống VSD và Hệ thống thanh toán ngoại tệ Vietcombank cũng có thể được coi là các FMI có tính quan trọng hệ thống và như vậy các nguyên tắc FMIs nên được áp dụng đối với các hệ thống này. SSC và SBV nên xem xét tiến hành phân tích chi tiết về chi phí và lợi ích của việc thành lập một CCP, coi đó như một phần của hoạt động giám sát. Việc thiếu một hệ thống ghi nợ trực tiếp là một lỗ hổng đáng kể trong cơ sở hạ tầng thanh toán bán lẻ; SBV cùng với các bên liên quan khác cần phải giải quyết lỗ hổng này trong trung hạn. 18 Trong Chương trình FSAP này chỉ có IBPS được nghiên cứu chi tiết và được đánh giá dựa trên CPSS-IOSCO PFMI. 19 Trên cơ sở đánh giá mức độ tuân thủ các CPSS-IOSCO PFMIs. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 43 VII. Khuôn khổ thanh tra giám sát và quản lý 42. Khuôn khổ thanh tra giám sát cần được tăng cường một cách mạnh mẽ để đảm bảo đưa ra lộ trình phù hợp cho sự phát triển tài chính trong thời gian còn lại của thập kỷ này. Mặc dù khá đầy đủ, khuôn khổ giám sát và quản lý bị phân chia cho nhiều cơ quan khác nhau. SBV thông qua BSA thực hiện giám sát các tổ chức tín dụng trong khi đó MOF thực hiện giám sát lĩnh vực bảo hiểm và thị trường chứng khoán thông qua ISA và SSC. Tất cả cơ quan giám sát đều có tính độc lập hạn chế. Hơn nữa, mỗi cơ quan tập trung vào lĩnh vực chuyên môn riêng và không thực hiện giám sát đối với các tập đoàn tài chính. Ngoài ra, các cơ quan giám sát có rất ít công cụ để xác định rủi ro an toàn vĩ mô theo thời gian và theo hướng liên kết chéo giữa các ngành. Cấu trúc “quá liên kết để có thể sụp đổ” đang nổi lên như là một hệ quả của các bất cập trong khuôn khổ pháp lý, cưỡng chế thực hiện không đầy đủ và công tác quản lý khủng hoảng yếu kém. Không có tổ chức nào chịu trách nhiệm đánh giá và quản trị rủi ro tổng thể đối với hệ thống tài chính và không có khuôn khổ pháp lý cho chính sách an toàn vĩ mô. Trong khi SBV có trách nhiệm giám sát rủi ro hệ thống thì cơ quan này lại thiếu năng lực phân tích các loại hình rủi ro hệ thống mới phát sinh. A. QUẢN LÝ VÀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 43. Công tác giám sát và quản lý hoạt động ngân hàng vẫn chưa phát triển và phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Mức độ tuân thủ với các nguyên tắc cốt lõi Basel (BCP) là thấp. Việc kết hợp chức năng giám sát an toàn (tập trung vào mức độ an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng) và chức năng “thanh tra chung” (tập trung vào xử lý các vi phạm về thủ tục hành chính) đã làm suy yếu chức năng giám sát an toàn cơ bản của SBV – đã một vài năm SBV không thanh tra tại chỗ đối với các SOCB, một phần để tránh trùng lặp với các đoàn thanh tra của Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước. Công tác giám sát từ xa mới ở giai đoạn khởi đầu. Quy định về công bố thông tin và báo cáo tài chính đối với các ngân hàng còn rất hạn chế, chất lượng thông tin nghèo nàn, và việc công bố các thông tin phi tài chính hầu như không có trên thực tế. SBV không thực hiện giám sát hợp nhất cũng như không tiến hành theo dõi toàn bộ tập đoàn ngân hàng một cách hiệu quả. Khuôn khổ pháp lý có qui định về giám sát hoạt động ngân hàng xuyên biên giới nhưng vẫn còn nhiều bất cập về giám sát đối với các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của các ngân hàng trong nước. 44. Có một số yếu tố cản trở việc thực thi hiệu quả các quyền hạn của SBV. SBV có nhiều mục tiêu tuy nhiên tính độc lập còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng của cơ quan giám sát trong việc thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật. Về mặt tích cực, Việt Nam có một khuôn khổ hoàn chỉnh về cấp phép, tạo cơ sở cho việc thực thi đầy đủ khuôn khổ quản lý giám sát đối với các tổ chức nhận tiền gửi. 45. Hiệu quả của công tác giám sát cũng bị ảnh hưởng bởi các lỗ hổng nghiêm trọng trong khuôn khổ pháp lý. Thứ nhất, định nghĩa về các bên liên quan quá hẹp ảnh hưởng đến việc xác định và đánh giá về người hưởng lợi cuối cùng và tác động đến nhiều mặt của công tác giám sát, bao gồm từ việc cấp phép, chuyển giao quyền sở hữu, mua lại, cho vay giá trị lớn, cho vay các bên liên quan, và an toàn vốn. Thứ hai, khuôn khổ cấp phép và giao quyền được quy định quá cứng nhắc và không tạo điều kiện cho các thanh tra viên tiến hành việc rà soát và đánh giá một cách phù hợp. Thứ ba, quy định và các yêu cầu về bảo đảm an toàn còn yếu kém. Các yêu cầu về an toàn vốn vẫn thực hiện theo Basel I và còn thiếu các hướng dẫn về rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất. Thứ tư, các quy định về phân loại tài sản và trích lập dự phòng chưa phát huy hiệu quả. 44 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 46. Luật và các quy định trao cho thanh tra viên thẩm quyền rộng trong việc khắc phục và sửa chữa các sai phạm nhưng ít khi thẩm quyền này được sử dụng. Mặc dù khuôn khổ pháp lý quy định thẩm quyền rộng tuy nhiên vẫn còn thiếu các qui trình và văn bản hướng dẫn để thực hiện cũng như tăng cường các quyền lực này. Mặc dù có một số tổ chức tín dụng yếu kém nhưng trong mười năm qua SBV chưa áp dụng kiểm soát đặc biệt cho ngân hàng nào vì lo ngại rằng việc sử dụng biện pháp này có thể dẫn đến tình trạng rút tiền hàng loạt. Điều này cho thấy còn thiếu một khuôn khổ các biện pháp điều chỉnh tức thì để buộc cơ quan giám sát phải hành động trong những tình huống như vậy. Cuối cùng, SBV không thưc hiện giám sát hợp nhất. Trong khi SBV có thẩm quyền giám sát ngân hàng và các công ty con của ngân hàng, nhưng SBV lại không có thẩm quyền pháp lý để giám sát hoặc theo dõi các công ty mẹ và các công ty chị em. B. QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG 47. Nhà nước có các vai trò mâu thuẫn trong hệ thống ngân hàng, làm giảm động lực của các ngân hàng trong việc chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình toàn bộ đối với hoạt động kinh doanh của họ. Nhiệm vụ chính sách, cho vay theo chỉ định cùng với khuôn khổ quản lý và giám sát yếu kém cũng như mức độ minh bạch thấp đã tạo ra môi trường kinh doanh trong đó hội đồng quản trị và ban điều hành chịu trách nhiệm rất ít hoặc thậm chí không có trách nhiệm giải trình. Các SOCB cũng phải chịu thiệt hại từ việc thiếu các cấu trúc quản trị được xác định rõ, và một số trách nhiệm thường là của hội đồng quản trị lại do SBV thực hiện. 48. Cấu trúc sở hữu phức tạp của nhiều ngân hàng tư nhân gây quan ngại về xung đột lợi ích, đặc biệt là về hoạt động cấp vốn một cách không an toàn cho các bên có liên quan hoặc các hoạt động đầu cơ ngoài ngành. Hệ thống tài chính thiếu văn hóa quản trị rủi ro mạnh và công tác quản lý rủi ro của các tổ chức tài chính vẫn chưa phát triển. Thêm vào đó, luật và các quy định liên quan hiện hành tập trung chủ yếu vào quy định chi tiết cơ chế của từng bộ phận quản lý hành chính hơn là gắn trách nhiệm cho các bên liên quan hoạt động vì lợi ích của công chúng và các bên tham gia trong ngành. Các quy định còn thiếu một số mảng quan trọng bao gồm quy định quản lý rủi ro và quy tắc quản trị ngân hàng. C. GIÁM SÁT VÀ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VỐN 49. SSC không có đủ quyền hạn, nguồn lực, và sự độc lập để hoạt động một cách hoàn toàn hiệu quả, và một số vấn đề về pháp lý và hoạt động làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của thị trường. Việc thực hiện các cải cách thế hệ đầu rất đáng được khen ngợi, nhưng không được áp dụng nhất quán, và cần phải ban hành luật thế hệ thứ hai. Khuôn khổ pháp lý và chế độ kế toán cần phải tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và hoạt động giám sát nghiệp vụ cần được tăng cường. Việc thi hành luật một cách nhất quán và đầy đủ là cần thiết để tăng niềm tin và thúc đẩy việc giao dịch theo quy định. Việc hợp tác giữa giám sát ngân hàng và chứng khoán đang được tăng cường là đáng tuyên dương để giải quyết rủi ro hệ thống tiềm năng; tuy nhiên việc này cần phải được kiểm chứng trong thực tế. Hơn nữa, khi mạng lưới phân phối chứng khoán được mở rộng đến ngân hàng, cơ quan giám sát cần phải nhận thức rằng những nguy cơ di chuyển từ ngành này sang ngành khác và việc lạm dụng vốn của khách hàng có thể làm suy yếu lòng tin và sự phát triển của thị trường. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 45 D. GIÁM SÁT VÀ QUẢN LÝ BẢO HIỂM 50. ISA gặp phải các thách thức đáng kể liên quan đến công tác giám sát và cơ quan này đang thiếu nguồn lực cũng như độc lập trong hoạt động. Hệ thống giám sát không dựa trên rủi ro và các tiêu chuẩn như bảo đảm an toàn, định giá, tái bảo hiểm, điều tiết thị trường và giám sát nhóm cần phải được cải thiện để đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Nguồn lực cho công tác giám sát thấp hơn so với các thị trường tương đương. ISA sẽ cần tăng cường các nguồn lực tài chính, xây dựng năng lực kỹ thuật, và tăng cường hệ thống thông tin của mình. ISA được khuyến nghị thực hiện kế hoạch phát triển giám sát xunh quanh ba trụ cột: (i) hiện đại, độc lập, và mô hình tự chủ tài chính, (ii) đưa ra cơ cấu quản trị và kiểm soát nội bộ chắc chắn hơn, (iii) sử dụng phương thức giám sát dựa trên cơ sở rủi ro cùng với tiêu chuẩn đảm bảo an toàn, định giá, tái bảo hiểm, điều tiết thị trường, và giám sát nhóm. E. MẠNG LƯỚI AN TOÀN TÀI CHÍNH VÀ XỬ LÝ NPL 51. DIV chịu trách nhiệm làm “nơi chi trả” chuẩn mực tuy nhiên theo luật mới sẽ có vai trò rộng hơn. Hệ thống bảo hiểm tiền gửi áp dụng mức bảo hiểm tiền gửi bằng đồng Việt Nam tối đa là 50 triệu đồng (dưới 2.500 USD) mặc dù hiện nay có thể đang xem xét áp dụng mức cao hơn. Các tổ chức nhận tiền gửi hiện nay phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi theo mức 0,15% trung bình số dư tiền gửi được bảo hiểm. Số lượng cán bộ của cơ quan này rất lớn nhưng không được sử dụng hiệu quả và cơ quan này sử dụng hầu hết các nguồn lực của mình để thực hiện việc giám sát sự tuân thủ theo quy định của pháp luật. 52. DIV chưa bao giờ được sử dụng để xử lý NPL hoặc các ngân hàng gặp khó khăn, và có tình hình tài chính yếu kém. Việc đóng cửa và thanh lý các ngân hàng mất khả năng thanh toán vấp phải sự phản đối được cho là nhằm tránh tình trạng rút tiền hàng loạt. Mặc dù cần thiết phải làm như vậy nhưng tình hình tài chính của DIV không đủ để hỗ trợ thanh lý hai tổ chức tín dụng có quy mô trung bình. Hiện nay, số dư quỹ của DIV chỉ chiếm khoảng 0,8% tổng số dư tiền gửi của toàn hệ thống. Đồng thời, có những rủi ro nghiêm trọng trong cách thức đầu tư vốn của DIV. Cơ quan này hiện đang đầu tư nhiều tại các tổ chức tín dụng thành viên. Trường hợp bất kỳ một trong số các tổ chức này gặp vấn đề về thanh khoản hay khủng hoảng khả năng thanh toán thì sẽ gây rủi ro cho các khoản đầu tư của DIV.20 53. Phương pháp xử lý được các cơ quan hữu quan ưu tiên là sáp nhập các tổ chức tài chính để xử lý tổ chức có vấn đề về thanh khoản. Lý do chính của việc lựa chọn giải pháp sáp nhập hợp nhất là do ngân sách eo hẹp và mong muốn tránh tình trạng rút tiền hàng loạt. Mặc dù việc sáp nhập hợp nhất đã giải quyết những khó khăn về thanh khoản trong ngắn hạn nhưng có vẻ nó chưa giải quyết được những khó khăn cơ bản về tài sản, thanh khoản, vốn và quản trị điều hành. Thêm vào đó, khả năng thực hiện giao dịch mua lại và tiếp nhận nợ (P&A) không được quy định rõ ràng trong Luật các tổ chức tín dụng. Cần có một cơ chế xử lý ngân hàng hiệu quả hơn để áp dụng thử nghiệm với các tổ chức có quy mô nhỏ. 20 Luật Bảo hiểm Tiền gửi ban hành năm 2012 cho phép DIV đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tín phiếu SBV và gửi tiền tại SBV nhưng Chương trình FSAP không đánh giá mức độ chính sách đầu tư của DIV đã thay đổi. 46 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 54. Từ năm 2003, một công ty quản lý tài sản tập trung (DATC) được thành lập để giảm tỷ lệ NPL trong hệ thống nhưng hiệu quả còn thấp. Tại thời điểm hiện nay, cơ quan này rất ít hoạt động và các tài sản còn lại chủ yếu dưới dạng hàng tồn kho, các khoản phải thu và các khoản đầu tư rất kém thanh khoản tại các công ty con và công ty liên doanh. DATC mua tài sản (tính đến nay là xấp xỉ 10.000 tỷ VND) chủ yếu từ các SOE. Các ngân hàng không muốn sử dụng DATC do tỷ lệ thu nợ theo báo cáo là thấp (khoảng 28% giá trị ghi sổ sau khi đã cấn trừ chi phí). AMC của các ngân hàng thương mại hiện cũng chưa thực sự hoạt động có hiệu quả. 55. Việc thành lập Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) đến nay là một bước tiến đáng kể để giải quyết vấn đề NPL. Tháng 5/2013, Chính phủ ban hành Nghị định 53 cho phép SBV thành lập VAMC với vốn điều lệ 500 tỷ VND (tương đương 24 triệu USD).21 Dự kiến VAMC sẽ mua nợ xấu từ các ngân hàng theo giá trị ghi sổ (sau khi cấn trừ các khoản dự phòng) hoặc theo giá thị trường. Việc mua nợ xấu được thực hiện thông qua phương thức phát hành trái phiếu đặc biệt có lãi suất bằng không của VAMC. Các ngân hàng có thể sử dụng trái phiếu của VAMC để vay tái cấp vốn từ SBV và có nghĩa vụ trích dự phòng hàng năm với tỷ lệ không thấp hơn 20% giá trị trái phiếu. Tại thời điểm mua lại trái phiếu đặc biệt nói trên, nếu khoản nợ gốc chưa được xử lý, các ngân hàng sẽ mua lại các khoản nợ đó từ VAMC với giá trị ghi sổ và hoàn trả trái phiếu đặc biệt cho VAMC. Nếu tổ chức tín dụng có tỷ lệ NPL trên 3% từ chối bán nợ xấu cho VAMC, SBV có thể tiến hành thanh tra hoặc thuê kiểm toán độc lập để đánh giá chất lượng và giá trị tài sản của các ngân hàng này. 56. Hiệu quả của chiến lược xử lý NPL này còn chưa rõ ràng và có thể cần phải có cách tiếp cận đa chiều chủ động. Việc xử lý NPL qua VAMC sẽ phụ thuộc vào sức hấp dẫn của VAMC đối với các ngân hàng và tính chủ động của VAMC trong việc xử lý NPL. Thiết kế của VAMC đòi hỏi các ngân hàng phải trích dự phòng 20%/năm cho các trái phiếu của VAMC mà không được tính vào tài sản sinh lời (trái phiếu VMAC dùng để mua NPL có lãi suất cuống phiếu bằng 0%). Việc sử dụng trái phiếu VAMC để tiếp cận thanh khoản có thể chỉ được một số ít ngân hàng đang gặp khó khăn nghiêm trọng hơn về thanh khoản quan tâm. Thêm vào đó, nếu các tài sản này được chuyển nhượng và lưu kho mà không có sự quản lý hoặc giải quyết một cách chủ động, thì chúng sẽ thực sự mất giá trị theo thời gian. Trong bất kỳ trường hợp nào, VAMC sẽ chỉ giải quyết được một phần NPL. 57. Các cơ quan chức năng có thể cần phải xem xét thông qua áp dụng phương pháp tái cơ cấu đa chiều với 4 cấu phần chính có liên kết mật thiết như sau: (i)  Tòa án giám sát trình tự tiến độ phá sản, để giải quyết nợ xấu của các tập đoàn lớn và đa năng. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo cấu phần này được thực hiện hiệu quả, cần phải xem xét lại cơ chế phá sản doanh nghiệp để hỗ trợ quá trình tái thiết và thanh lý chính thức; (ii)  Tái cơ cấu với hệ thống ngân hàng là nòng cốt, cần đi cùng với cơ sở pháp lý cho phép các chủ nợ được triển khai cơ chế tự dàn xếp và phê duyệt rút gọn. Cơ sở pháp lý chỉ cần quy định về mặt nguyên tắc đối với nội dung liên quan đến thủ tục tự thỏa thuận được áp dụng và nội dung đàm phán, trong khi giao quyền tự quyết tối đa cho các bên tham gia thỏa thuận tự dàn xếp; (iii) Cấu phần Công ty Quản lý Tài sản (“VAMC”): Công ty VAMC là đơn vị chính trong việc giải quyết nợ/ tài sản xấu, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng/bất động sản; 21 VAMC được thành lập sau khi các báo cáo FSAP được chuyển cho các cơ quan chức năng vào ngày 30/1/2013. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 47 Cơ chế tái cơ cấu hành chính đặc biệt, được sử dụng một cách hạn chế trong các trường hợp toàn (iv)  bộ hoặc hầu hết số nợ của một SOE đều tập trung ở các SOCB. Chính phủ có thể áp dụng biện pháp hành chính để giải quyết khối lượng NPL này cùng với kế hoạch tái cơ cấu cụ thể đối với các SOE. 58. Cần thực hiện cải cách pháp lý để hỗ trợ thực hiện phương án đa chiều này. Để loại bỏ những trở ngại khác trong việc xử lý tự nguyện và thực thi các quyết định, cần phải sửa đổi các văn bản pháp lý như Bộ luật Dân sự, Bộ Luật tố tụng Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định về Bán đấu giá Tài sản và Nghị định về các giao dịch bảo đảm, Quyết định số 90/2011 của Chính phủ, Luật thuế, và các quyết định của SBV. VIII. Tăng cường chương trình cải cách của Chính phủ 59. Chương trình cải cách được đề xuất nhằm giải quyết những thách thức cơ bản trong lĩnh vực tài chính chia thành ba giai đoạn. Hai thách thức cơ bản bao gồm xử lý một cách hiệu quả khối lượng lớn NPL và đảm bảo hiệu quả của dòng tài chính mới. Hơn nữa, trong giai đoạn thiết kế và thực hiện cải cách vấn đề then chốt là phải giữ ổn định của hệ thống tài chính để đảm bảo sự thành công của chương trình. Chương trình cải cách tài chính dự kiến sẽ được thực hiện trong ba giai đoạn chính. Giai đoạn 1 là triển khai các công việc chuẩn đoán cần thiết (chẳng hạn như thực hiện kiểm toán tài chính đặc biệt) chuẩn bị nền tảng cho một cuộc cải cách tài chính thành công. Trong giai đoạn 2 Chính phủ sẽ khởi động các cấu phần ưu tiên của chương trình (bao gồm cả cấp vốn bổ sung cho ngân hàng) và hoàn thiện thiết kế của các cấu phần khác. Trong giai đoạn 3, Chính phủ sẽ tăng cường và củng cố việc thực hiện chương trình cải cách. Bảng 3 trình bày tóm tắt biểu đồ của ba giai đoạn. A. GIAI ĐOẠN 1: ĐÁP ỨNG CÁC ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ CẢI CÁCH THÀNH CÔNG 60. Biện pháp cải cách cấp bách nhất đòi hỏi phải tiến hành kiểm toán tài chính đặc biệt để đo lường chính xác tỷ lệ NPL và kiểm toán hoạt động các SOCB. Nhiều chương trình cải cách tài chính thành công đã được xây dựng trên những chẩn đoán hoạt động và tài chính chi tiết. Các đợt kiểm toán như vậy sẽ đánh giá chất lượng danh mục cho vay, hồ sơ của các khách hàng vay, các loại tài sản thế chấp và giá trị ước tính của chúng cũng như các hình thức liên kết giữa các ngân hàng và khách hàng vay. Kết quả kiểm toán sẽ cho phép Chính phủ và SBV xác định được nhu cầu cấp vốn bổ sung và các nguồn cấp vốn khác nhau, ví dụ như đối với trường hợp của các SOCB là khả năng hỗ trợ từ ngân sách và/hoặc cho phép các nhà đầu tư tư nhân chiến lược tham gia nhiều hơn. Các ngân hàng thương mại nhà nước cũng sẽ phải được kiểm toán hoạt động đặc biệt, bao gồm đánh giá về cơ cấu quản trị, các chức năng quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ, hệ thống IT và các chính sách và qui trình nhân sự. Kiểm toán hoạt động cũng sẽ đánh giá các ngân hàng về khả năng đi đầu trong việc xử lý nợ và tái cơ cấu doanh nghiệp. Đối với các ngân hàng cổ phần tư nhân, cần phải đánh giá khả năng đi đầu trong việc xử lý nợ. 61. Giai đoạn đầu này sẽ bao gồm cả các biện pháp tạm thời để bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính trong thời kỳ cải cách. Các biện pháp này bao gồm tăng mức bảo hiểm tiền gửi và thành lập quỹ hỗ trợ thanh khoản có mục tiêu cụ thể. B. GIAI ĐOẠN 2: TRIỂN KHAI CÁC CẤU PHẦN ƯU TIÊN CỦA CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH 62. Biện pháp chính sách quan trọng nhất trong giai đoạn này là cấp vốn bổ sung cho các ngân hàng còn khả năng hoạt động (xác định dựa trên các kết quả kiểm toán đặc biệt) để đáp ứng qui định về an toàn vốn tối thiểu, và loại bỏ một cách trật tự các ngân hàng yếu kém. Việc cấp vốn bổ 48 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM sung cho các SOCB và các ngân hàng cổ phần tư nhân sẽ được thực hiện cùng một số biện pháp bổ sung. Các biện pháp đó bao gồm thoái vốn tại các ngân hàng khác, hoặc chuyển cho VAMC hoặc SCIC để sau này thoái vốn, tùy vào các điều kiện thị trường. Đối với các SOCB, cần cân nhắc thay đổi ban điều hành và lựa chọn một công ty tư vấn quốc tế để thực hiện kế hoạch tái cơ cấu. Đối với các ngân hàng cổ phần tư nhân, đây sẽ là một cơ hội để thoái vốn của các SOE và làm sạch sở hữu chéo giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng với các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn. Các ngân hàng nhỏ hơn và không còn khả năng hoạt động có thể được đưa vào chương trình xử lý ngân hàng theo trật tự. 63. Trong giai đoạn này cần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng và quy định tài chính cũng như chuẩn bị cho các cải cách về quản lý và giám sát toàn diện hơn của giai đoạn sau. Chương trình FSAP và các báo cáo đánh giá chi tiết tuân thủ các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế đưa ra các khuyến nghị có thể làm cơ sở để cải cách toàn diện khuôn khổ quản lý và giám sát. Các cơ quan chức năng cũng nên cân nhắc triển khai các chương trình xây dựng năng lực giám sát và cơ sở hạ tầng IT cho cả ba cơ quan giám sát, với sự hỗ trợ kỹ thuật từ bên ngoài. Việc cải cách chế độ thuế đối với các khoản dự phòng rủi ro và xóa nợ, cũng như các biện pháp cho phép xử lý tài sản thế chấp ngoài tòa, sẽ là cơ sở để thực hiện xử lý nợ một cách hiệu quả hơn. Chính phủ và SBV cũng có thể cân nhắc sửa đổi chiến lược xử lý nợ và trong bối cảnh này là sửa đổi cấu trúc pháp lý và tôn chỉ hoạt động của VAMC mới. 64. Cuối cùng, có thể khởi xướng chương trình phát triển thị trường vốn và các Tổ chức tài chính phi ngân hàng (NBFI) với việc triển khai đầy đủ Lộ trình Phát triển thị trường Trái phiếu Chính phủ. Chương trình phát triển thị trường vốn là rất quan trọng đối với Việt Nam, vì nó có thể góp phần thực hiện cả mục tiêu tiếp cận và ổn định. Trong giai đoạn này, Chính phủ và SBV cũng có thể bắt đầu chuẩn bị hành lang pháp lý quan trọng cho sự ra đời của các công cụ thị trường trái phiếu như trái phiếu cơ sở hạ tầng và trái phiếu có bảo đảm. C. GIAI ĐOẠN 3: CỦNG CỐ CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH 65. Chương trình xử lý nợ sẽ được triển khai đầy đủ trong giai đoạn này. Các cấu phần ngân hàng và VAMC sẽ được tăng cường bằng việc ban hành các quy định. VAMC sẽ được bố trí cán bộ phù hợp để thực hiện các chức năng của mình. Đến thời điểm này, Chính phủ cũng sẽ có điều kiện để tăng cường thực hiện các chương trình tái cấu trúc đặc biệt cho các tập đoàn kinh tế lớn. 66. Trong giai đoạn này, Chính phủ và SBV cần thực hiện các biện pháp để giải phóng nghĩa vụ chính sách cho các SOCB và đảm bảo hoạt động quản trị lành mạnh cho cả SOCB và ngân hàng tư nhân. Chức năng sở hữu và giám sát nên được sắp xếp thực hiện bởi các đơn vị khác nhau để đồng thời đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả quyền sở hữu và tính độc lập của công tác giám sát. Các SOCB cần hoạt động với nghĩa vụ, mục tiêu hoạt động và cấu trúc quản trị rõ ràng. Lý tưởng là hầu hết các nghĩa vụ và chức năng chính sách sẽ được chuyển giao cho các ngân hàng chính sách và các ngân hàng này cũng sẽ được tái cơ cấu về tài chính và hoạt động để thực hiện vai trò này một cách hiệu quả. Sự phát triển của trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu cơ sở hạ tầng cũng sẽ góp phần giải phóng các SOCB khỏi nghĩa vụ thực hiện chức năng chính sách và cho vay theo chỉ định, và như vậy sẽ nâng cao tính minh bạch. Việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định hỗ trợ khác cũng sẽ giúp tăng cường các chức năng quản trị chủ chốt, và SBV sẽ thực hiện yêu cầu bảo đảm phân định rõ ràng về vai trò quyền sở hữu, công tác giám sát của hội đồng quản trị, ban điều hành; các hội đồng độc lập và chuyên nghiệp; và chức năng quản lý rủi ro mạnh mẽ hơn. 67. Giai đoạn này cũng sẽ bao gồm cả việc tăng cường thực hiện chương trình phát triển thị trường vốn và thực hiện toàn diện cải cách cơ sở hạ tầng tài chính và pháp lý. Điều này bao gồm đạt được tiến độ đáng kể trong việc triển khai lộ trình phát triển thị trường trái phiếu chính phủ và có thể đưa ra các công cụ trái phiếu mới, chẳng hạn như trái phiếu cơ sở hạ tầng và trái phiếu bảo đảm. Cải cách quy định tài chính cần được đi kèm với tiến độ đáng kể trong việc triển khai các chương trình phát triển hoạt động giám sát.   Đề Xuất Chương trình Cải cách Tài chính CẢI CÁCH KHU VỰC TÀI CHÍNH CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ TÀI VẤN ĐỀ HIỆN TẠI VẤN ĐỀ TRONG TƯƠNG LAI CHÍNH TẠM THỜI  iểm toán tài chính đặc biệt đối với tất cả các ngân hàng lớn để ước tính số NPL và nhu cầu cấp vốn bổ sung, • K và làm đầu vào cho việc xây dựng đề án xử lý nợ; Đánh giá mức độ •   iểm toán hoạt động đặc biệt của các ngân hàng thương mại nhà nước và chính sách để định hướng • K ĐIỀU KIỆN TIÊN các biện pháp bảo vệ cần thiết  chương trình tái cấu trúc; QUYẾT trong suốt Chương trình • Xác định các tổ chức tài chính có tầm quan trọng đối với hệ thống (SIFI).  ác định các mối liên kết chéo giữa các tổ chức tài chính và xây dựng các kế hoạch dự phòng để giải quyết • X khả năng tổn thương chung; • Lập sơ đồ của vấn đề NPL để thiết kế các đề án xử lý nợ xấu hiệu quả.  hỉ đạo các ngân hàng thông qua áp dụng quy định • C bảo đảm an toàn nghiêm ngặt đối với tất cả khoản •  ấp vốn bổ sung cho các ngân hàng còn khả C vay mới; năng hoạt động đáp ứng quy định tối thiểu;  hởi động việc cơ cấu lại hoạt động của các ngân • K • Cân nhắc tăng mức tham gia của các nhà đầu tư  hàng nhà nước; chiến lược nước ngoài trong việc cấp vốn bổ sung; Tăng cường thực hiện chương trình phát triển hoạt •  •  óng cửa một cách có trật tự các ngân hàng nhỏ Đ  ạm thời tăng mức bảo hiểm •T động thanh tra giám sát đối với cả ba cơ quan thanh CÁC BIỆN PHÁP yếu kém; ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM tiền gửi tra giám sát; NGẮN HẠN • Xóa bỏ tình trạng sở hữu chéo; Thực hiện các cải tiến thiết yếu về cơ sở hạ tầng tài •  • Hoàn thiện thiết kế đề án xử lý nợ; chính và quy định tài chính trong ngắn hạn; •  oàn thiện thể chế pháp lý, tôn chỉ hoạt động của H Thiết kế cơ sở hạ tầng tài chính toàn diện và các cải •  VAMC và bố trí cán bộ. cách về mặt pháp lý cho giai đoạn tiếp theo; •  oàn thiện dự thảo các đề án cải cách pháp lý để H  ây dựng lộ trình phát triển thị trường trái phiếu • X hỗ trợ thực hiện đề án xử lý nợ chính phủ. • Đ ưa ra gói giải pháp giảm bớt gánh nặng chính sách cho các SOCB o Vai trò mới, tập trung vào định hướng thương mại o Cơ cấu quản trị, quản lý rủi ro mạnh hơn o C  huyển hoạt động chính sách sang các ngân hàng  riển khai toàn diện đề án xử lý nợ với các qui định •T chính sách CÁC BIỆN PHÁP  hay thế bằng mạng lưới an •T pháp lý có hiệu lực o  Tăng cường sự tham gia của cổ đông thiểu số nước ngoài TRUNG HẠN toàn được điều chỉnh. o Phát triển cơ sở hạ tầng và trái phiếu doanh nghiệp • X ây dựng khuôn khổ quản lý thanh khoản vận hành hiệu quả. • Tăng cường cải cách thị trường vốn 49 Thực hiện cải cách cơ sở hạ tầng tài chính toàn diện •  và cải cách về pháp lý. 50 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Các Khuyến nghị Kỹ thuật Chính Khuyến nghị Cơ quan Khung thời gian Giám sát và quản lý hoạt động ngân hàng Tăng cường thể chế giám sát hoạt động ngân hàng bằng cách tách và BSA, SBV Trung hạn tăng cường chức năng giám sát an toàn tập trung vào mức độ an toàn và lành mạnh của SBV ra khỏi chức năng thanh tra tập trung vào các vi phạm thủ tục hành chính của Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước. Tăng cường công tác thu thập, phân tích, công bố và lưu trữ dữ liệu của BSA. BSA, SBV Ngắn hạn Xây dựng cơ chế giám sát thích hợp đối với quyền sở hữu/thụ hưởng SBV khởi xướng Trung hạn thực sự, cũng như các tập đoàn kinh tế và ngân hàng bằng cách mở rộng định nghĩa về các bên có liên quan và liên kết. Ban hành chỉ thị mới về quản trị ngân hàng, bao gồm cả các yêu cầu SBV Ngắn hạn chặt chẽ hơn về quản lý rủi ro của các ngân hàng cũng như tăng cường năng lực đánh giá, giám sát bằng cách xây dựng văn bản hướng dẫn hoạt động quản trị rủi ro tổng thể và cụ thể, cũng như các văn bản hướng dẫn nội bộ. Tăng cường đánh giá và giám sát các nguyên tắc phân loại tài sản và SBV Ngắn hạn trích lập dự phòng của các ngân hàng (bao gồm cả xác định giá trị tài sản thế chấp) bằng cách xây dựng hướng dẫn nội bộ và nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác giám sát. Kiểm định sức chịu đựng Sửa đổi định nghĩa về tài sản có thanh khoản nhanh và tài sản nợ ngắn BSA Trung hạn hạn để loại ra những tài sản không có khả năng bán ngay. Rà soát các tỷ lệ an toàn bắt buộc và các tỷ lệ quay vòng trong tính toán BSA, SBV Trung hạn tài sản có thanh khoản nhanh và tài sản nợ ngắn hạn. Bảo hiểm Xây dựng kế hoạch phát triển giám sát/điều tiết để xác định mức độ ưu MOF/ISA Ngắn hạn tiên và thực hiện các thách thức trong hoạt động. Chuyển sang các mô hình giám sát hiện đại cùng với việc nâng cao các MOF/ISA Trung hạn nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở hạ tầng. Xây dựng và thành lập các chuẩn mực về quản trị và kiểm soát nội bộ MOF/ISA Trung hạn doanh nghiệp bảo hiểm. Tái cơ cấu bảo hiểm MTPL và chuyển sang tính phí trên cơ sở rủi ro. MOF/ISA Trung hạn Chứng khoán Tăng cường giám sát thị trường, trung gian môi giới và khách hàng, tài SSC Ngắn hạn sản và đẩy nhanh quy trình xử lý nghiệp vụ hiện đang thực hiện của các công ty chứng khoán. Thực hiện các kế hoạch về quỹ bảo vệ/ bồi thường khách hàng. SSC Trung hạn Tăng cường giám sát thị trường chứng khoán và các cơ chế báo cáo giá SSC Trung hạn liên quan. Tăng cường cơ sở hạ tầng thanh quyết toán và luật pháp liên quan. SSC Dài hạn Các vấn đề an toàn vĩ mô Xác định khuôn khổ pháp lý cho “ổn định tài chính” và các cơ quan chịu SBV/MOF Trung hạn trách nhiệm về ổn định tài chính. ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 51 Các Khuyến nghị Kỹ thuật Chính Khuyến nghị Cơ quan Khung thời gian Xác định khuôn khổ pháp lý cho “ổn định tài chính” và các cơ quan chịu SBV/MOF Trung hạn trách nhiệm về ổn định tài chính. Xây dựng khuôn khổ giám sát hợp nhất và tăng cường sự phối hợp giữa SBV, BSA, MOF, Trung hạn các cơ quan. ISA, SSC, DIV Giảm bớt sự phụ thuộc vào các biện pháp hành chính để điều tiết HT tài SBV, MOF Trung hạn chính. Khuôn khổ Quản lý khủng hoảng và xử lý ngân hàng Các ngân hàng, tòa án, VAMC và các cơ quan quản lý cấp cao thực hiện SBV/MOF Ngắn hạn phương pháp tái cơ cấu đa mục tiêu với các cấu phần chủ đạo. Thông qua áp dụng và triển khai việc cải cách pháp lý đối với các bộ luật Tòa án NDTC, Ngắn hạn về phá sản, cưỡng chế thi hành, doanh nghiệp, đất đai và thuế. MOJ, SBV, MOL, MOF Áp dụng các công cụ quản lý khủng hoảng hiện tại một cách triệt để SBV, BSA Ngắn hạn hơn. Xây dựng phương án theo luật để thực hiện các giao dịch mua tài sản và SBV, BSA Ngắn hạn tiếp nhận nợ (P&A). Cơ sở hạ tầng thị trường tài chính Xây dựng một luật mới để xử lý tổng thể tất cả các khía cạnh liên quan SBV Ngắn hạn đến các hệ thống thanh toán và quyết toán. Xây dựng khuôn khổ quản trị rủi ro tổng thể cho IBPS, SBV, CSD cũng SBV Ngắn hạn như mối liên kết giữa các FMI này với các FMI khác tại Việt Nam (các rủi ro tín dụng, thanh khoản, lưu lý và đầu tư, và hoạt động). Đề ra các mục tiêu của chính sách giám sát và củng cố năng lực giám sát SBV, SSC Ngắn hạn để thực thi hiệu quả PFMI. 52 ĐIỂM LẠI CẬP NHẬT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Tài liệu Tham Khảo European Chamber of Commerce in Vietnam, BCI Quarter 3/2014 surpasses the previous quarter, Hanoi, October 2014 Government of Vietnam, Report of Socio-Economic Development to the National Assembly. Hanoi October 2014 GSO, Statistical Yearbooks, Hanoi 2014 HSBC, Markit Economics, Financial Information Services, Vietnam Manufacturing PMI October 2014 IMF, Staff Report for the 2014 Article IV Consultation for Vietnam, Washington DC 2014 KPMG Vietnam, Tax Alert. Hanoi, June 2014 Stockplus, Vietnam M&A Research report 2014, Issue 4, August 2014 United Nations, United Nations Commodity Trade Statistics Database (COMTRADE) World Bank, Global Economic Prospects. Washington DC. June 2014 World Bank, World Integrated Trade Solutions (WITS),Online Trade Outcomes Indicators. Washington DC. September 2014 World Bank, East Asia Pacific Economic Update: Enhancing Competitiveness in an Uncertain World. Washington DC. October 2014 World Bank, Doing Business 2015 - Going Beyond Efficiency. Washington DC. October 2014 Ngân Hàng Thế giới tại Việt Nam 63 Lý Thái Tổ, Hà Nội Tel: (84-4) 3934 6600 Fax: (84-4) 3935 0752 Website: www.worldbank.org.vn