ACS7712 v2 Đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại Việt Nam Tháng 12/2013 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu Đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại Việt Nam do Đoàn công tác của Ngân hàng Thế giới thực hiện. Các thành viên của Đoàn công tác gồm ông Lê Duy Hưng (Chuyên gia cao cấp về đô thị, EASVS, Trưởng đoàn), ông Alan Coulthart (Kỹ sư trưởng về đô thị, EASIN, đồng Trưởng đoàn từ tháng 03/2012 đến tháng 06/2012), ông Sudipto Sarkar (Trưởng ban, EASWE, đồng Trưởng đoàn từ tháng 07/2012 đến nay), ông James Corning (Tư vấn quốc tế chính từ tháng 03/2012 đến tháng 03/2013), ông Nguyễn Việt Anh (Phó giáo sư, Tiến sỹ, Chuyên gia về Quản lý nước thải), bà Trần Việt Nga (Tiến sỹ, trợ lý) và ông Ross Kearton (Biên tập viên kỹ thuật). Nghiên cứu đưa ra hai báo cáo gồm Báo cáo tóm tắt dành cho những người hoạch định chính sách quyết định đầu tư và Báo cáo chính kỹ thuật dành cho các chuyên gia chuyên ngành. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và hỗ trợ tận tình của bà Victoria Kwakwa (Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam), bà Jennifer Sara (Quản lý ngành, EASVS), ông Charles Feinstein (Quản lý ngành, EASWE), ông Parameswaran Iyer (Chuyên gia chính về Nước và Vệ sinh), ông Victor Vazquez Alvarez (Chuyên gia Nước và Vệ sinh) cũng như của các chuyên gia khác của Ngân hàng Thế giới. Chúng tôi rất cảm ơn những góp ý xây dựng quý báu của các thành viên phản biện là ông Manuel Marino (Chuyên gia chính về Nước và Vệ sinh, ESCUW) và bà Claire Kfouri (Chuyên gia cao cấp về Nước và Vệ sinh, MNSWA). Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các thành viên Ban cố vấn đã hỗ trợ trong quá trình chuẩn bị và hoàn thiện báo cáo: Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Tiến (Cục trưởng Cục Hạ tầng Kỹ thuật, Bộ Xây dựng), ông Trần Quang Hưng (Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Cấp thoát nước Việt Nam), Phó giáo sư, Tiến sỹ Ưng Quốc Dũng (Phó chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam), Tiến sỹ Phạm Sỹ Liêm (nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng), Tiến sỹ Dương Đức Ưng (nguyên Vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và bà Nguyễn Hồng Yến (nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính). Đoàn công tác cũng xin cảm ơn các cán bộ của Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, chính quyền các tỉnh/thành phố, các cơ quan, doanh nghiệp quản lý, vận hành các công trình thoát nước, xử lý nước thải cũng như các đồng nghiệp từ các tổ chức tài trợ có liên quan như Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) đã hỗ trợ và hợp tác với chúng tôi trong quá trình chuẩn bị báo cáo này. Danh sách các cá nhân, tổ chức tham vấn được trình bày trong Phụ lục D. Nghiên cứu đánh giá quản lý nước thải đô thị Việt Nam do Chính phủ Úc tài trợ. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI Quan điểm nêu trong báo cáo này là của các tác Nghiên cứu này là sản phẩm của cán bộ Ngân hàng giả, không thể hiện quan điểm của Chính phủ Úc. Thế giới. Các phát hiện, phân tích và kết luận của báo cáo này không nhất thiết thể hiện quan điểm của Ban lãnh đạo Ngân hàng Thế giới hay Chính phủ của nước được nghiên cứu. 3 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................................................3 DANH MỤC BẢNG BIỂU.........................................................................................................................6 DANH MỤC HÌNH VẼ..............................................................................................................................7 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT......................................................................................................................9 BÁO CÁO TÓM TẮT..............................................................................................................................11 Giới thiệu............................................................................................................................................ 13 1. Hiện trạng hoạt động quản lý nước thải đô thị ở Việt Nam....................................................... 13 2. Những thông điệp chính và kiến nghị........................................................................................ 16 BÁO CÁO CHÍNH.................................................................................................................................. 21 1. Đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nước thải đô thị.............................................................. 23 1.1 Bối cảnh và giới thiệu....................................................................................................................... 23 1.2 Lịch sử phát triển VSMT đô thị ở Việt Nam...................................................................................... 23 1.2.1 Phát triển VSMT ở các thành phố lớn.................................................................................. 24 1.2.2 Phát triển VSMT ở các đô thị cấp tỉnh................................................................................. 26 1.2.3 Sơ đồ thoát nước phân tán và tại chỗ................................................................................. 28 1.2.4 Xây dựng khung pháp lý về vệ sinh môi trường.................................................................. 28 1.3 Đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị.................................................................................. 29 1.3.1 Khía cạnh kỹ thuật............................................................................................................... 29 1.3.2 Chính sách........................................................................................................................... 36 1.3.3 Thể chế................................................................................................................................ 40 1.3.4 Xã hội................................................................................................................................... 42 1.3.5 Tài chính. .............................................................................................................................. 43 2. Phân tích hiệu quả quản lý vệ sinh môi trường......................................................................... 53 2.1 Động lực và rào cản.......................................................................................................................... 53 2.1.1 Các yếu tố thúc đẩy phát triển VSMT đô thị........................................................................ 53 2.1.2 Các yếu tố khuyến khích cải thiện chất lượng dịch vụ VSMT đô thị.................................... 55 2.1.3 Các yếu tố cản trở phát triển VSMT đô thị.......................................................................... 55 2.1.4 Các yếu tố cản trở hoạt động cải thiện dịch vụ VSMT đô thị............................................... 57 2.2 Các vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển VSMT đô thị.................................................................... 58 2.2.1 Công nghệ xử lý nước thải................................................................................................... 58 2.2.2 So sánh hệ thống thoát nước chung và riêng...................................................................... 60 2.2.3 Đấu nối hộ gia đình. ............................................................................................................. 64 5 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 2.2.4 Tiêu chuẩn nước thải sau xử lý............................................................................................ 63 2.2.5 Thu hồi chi phí..................................................................................................................... 64 2.2.6 Quản lý bùn thải nhà vệ sinh............................................................................................... 66 2.2.7 Hệ thống xử lý tập trung và hệ thống xử lý phân tán.......................................................... 67 3. Kết luận và kiến nghị................................................................................................................. 68 3.1 Hệ thống xử lý tập trung và hệ thống xử lý phân tán. ...................................................................... 68 3.2 Quản lý tổng hợp, đầu tư ưu tiên và lập kế hoạch thực hiện dự án................................................ 69 3.3 Hệ thống quản lý nước thải: xử lý tập trung/phân tán, hệ thống thoát nước chung/riêng. Vai trò của đấu nối hộ gia đình....................................................................................................... 70 3.4 Công nghệ xử lý nước thải và tiêu chuẩn xả thải............................................................................. 72 3.5 Cơ chế tài trợ cho hệ thống thoát nước, xử lý nước thải và thu hồi chi phí.................................... 73 3.6 Tích cực, sáng tạo và đổi mới để mang lại lợi ích cho người sử dụng dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải................................................................................................................................. 75 3.7 Quản lý phân bùn ở khu vực đô thị: nội dung quan trọng của công tác lập kế hoạch phát triển VSMT............................................................................................................................... 76 PHỤ LỤC.............................................................................................................................................. 81 Phụ lục A - Các chỉ số chính đánh giá hoạt động vệ sinh môi trường ở Việt Nam. ...................................... 83 Phụ lục B - Danh mục các nhà máy xử lý nước thải (nmxlnt) ................................................................. 85 Phụ lục C - Nghiên cứu điển hình ............................................................................................................... 90 Nghiên cứu điển hình 1: Chất lượng nước thải, tiêu chuẩn thải và lựa chọn công nghệ xử lý....... 90 Nghiên cứu điển hình 2: Phí thoát nước và thu hồi chi phí.......................................................... 102 Nghiên cứu điển hình 3: Đấu nối hộ gia đình. ............................................................................... 107 Nghiên cứu điển hình 4: Bể tự hoại và quản lý phân bùn............................................................. 115 Nghiên cứu điển hình 5: Lập kế hoạch, thực hiện dự án và hiệu quả dự án quản lý nước thải...... 130 Phụ lục D - Danh sách cá nhân tham vấn.................................................................................................. 138 Phụ lục E - Album ảnh . ............................................................................................................................. 141 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................ 149 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1 Chỉ số đánh giá hiệu quả xử lý của các nhà máy xử lý nước thải đô thị đang hoạt động ở Việt Nam................................................................................................................................... 32 Bảng 1.2 Những thay đổi về các tiêu chuẩn xả nước thải công nghiệp......................................................... 38 Bảng 1.3 Hỗ trợ tài chính nước ngoài cho phát triển đô thị, nước và VSMT (1993–nay) ...................... 43 Bảng 1.4 Phí nước thải áp dụng ở các thành phố và thị xã Việt Nam ..................................................... 46 6 mục lục Bảng 1.5 Chi phí vận hành và bảo dưỡng của các NM XLNT đô thị đang hoạt động............................... 47 Bảng 2.1 So sánh hệ thống thoát nước chung và riêng ở các đô thị Việt Nam........................................ 59 Bảng 2.2 So sánh đặc điểm của hệ thống thoát nước chung và riêng..................................................... 62 Bảng 3.1 Kiến nghị các hoạt động cần thực hiện để cải thiện công tác quản lý và phát triển bền vững lĩnh vực VSMT đô thị................................................................................................................. 77 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1.1 Hệ thống thoát nước điển hình của các đô thị ở Việt Nam....................................................... 24 Hình 1.2 Xây dựng trục tiêu thoát nước chính ở thành phố Hà Nội........................................................ 26 Hình 1.3 Quá trình phát triển VSMT đô thị ở Việt Nam........................................................................... 27 Hình 1.4 Hiện trạng quản lý nước thải đô thị Việt Nam.......................................................................... 28 Hình 1.5 Công suất hoạt động thực tế và công suất thiết kế của 15 nhà máy xử lý nước thải đã khảo sát................................................................................................................................ 30 Hình 1.6 So sánh nồng độ chất ô nhiễm của nước thải trong hệ thống thoát nước chung và riêng....... 31 Hình 1.7 Sân phơi bùn ở Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt....................................................................... 35 Hình 1.8 Một Hội thảo về sửa đổi Nghị định 88 về thoát nước do Bộ Xây dựng tổ chức........................ 37 Hình 1.9 Sơ đồ quản lý nhà nước về thoát nước và xử lý nước thải đô thị Việt Nam............................. 39 Hình 1.10 Nạo vét mương thoát nước. ..................................................................................................... 39 Hình 1.11 Kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè sau khi cải tạo. .................................................................................. 41 Hình 1.12 Nguồn ngân sách cho hoạt động xây dựng , vận hành và bảo dưỡng hệ thống thoát nước đô thị ở Việt Nam...................................................................................................................... 44 Hình 1.13 Tỷ lệ vốn đầu tư vào các công trình vệ sinh đô thị.................................................................... 45 Hình 1.14 So sánh chi phí đầu tư cơ bản (CAPEX, USD/đầu người) của các nhà máy xử lý nước thải áp dụng các nhóm công nghệ xử lý khác nhau.......................................................................... 48 Hình 1.15 So sánh chi phí đầu tư cơ bản (CAPEX, USD/đầu người) của các nhà máy xử lý nước thải áp dụng các nhóm công nghệ xử lý khác nhau.......................................................................... 49 Hình 1.16 So sánh chi phí vận hành bảo dưỡng (OPEX, USD/m3 nước thải xử lý) của các nhà máy xử lý nước thải áp dụng nhóm công nghệ xử lý khác nhau....................................................... 49 Hình 1.17 So sánh chi phí vận hành, bảo dưỡng (OPEX, VNĐ/ m3 nước thải được xử lý) của các nhà máy xử lý nước thải áp dụng nhóm công nghệ xử lý khác nhau và theo biểu phí nước thải khác nhau.................................................................................................................. 50 Hình 2.1 So sánh tỷ lệ đấu nối vào mạng lưới thoát nước với mức GDP/đầu người ở các đô thị........... 53 Hình 2.2 Ngập lụt tại Hà Nội tháng 11/2008............................................................................................ 56 Hình 2.3 Trạm xử lý nước thải Bắc Giang................................................................................................. 57 Hình 2.4 Giá trị tối đa các thông số ô nhiễm trong tiêu chuẩn nước thải Việt Nam, 1995 – 2011.......... 64 Hình 2.5 Giá nước sạch và nước thải năm 2012 của một số thành phố ................................................. 65 7 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hình 2.6 So sánh mức giá nước sạch và nước thải trung bình của một số nước. .................................... 65 Hình 3.1 Hệ thống xử lý nước thải theo quy mô phân tán cho tòa nhà chung cư, văn phòng................ 70 Hình 3.2 Đấu nối thiết bị vệ sinh hộ gia đình vào HTTN riêng................................................................. 71 Hình 3.3 Xả tràn từ giếng tách nước mưa ra bờ biển Đà Nẵng. ............................................................... 73 Hình 3.4 Trạm xử lý nước thải ứng dụng công nghệ bùn hoạt tính......................................................... 74 8 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á A2O Kỵ khí – Thiếu khí – Hiếu khí AS/ASP/CAS Quá trình xử lý nước thải bùn hoạt tính truyền thống BOD Nhu cầu oxy hóa sinh học CAPEX Chi phí đầu tư C:N Tỷ lệ Các bon : Ni-tơ COD Nhu cầu oxy hóa hóa học CSO Giếng tràn tách nước mưa CSS Hệ thống thoát nước chung DOLISA Sở Lao động, Thương binh và Xã hội DONRE Sở Tài Nguyên và Môi trường EP Bảo vệ Môi trường EPL Luật Bảo vệ Môi trường ESI Sáng kiến đánh giá kinh tế trong vệ sinh môi trường FSM Quản lý phân bùn GDP Tổng sản phẩm quốc nội HCMC Thành phố Hồ Chí Minh HSDC Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội HHs/HHC Hộ gia đình/Đấu nối hộ gia đình IEC Thông tin, Giáo dục, Truyền thông JICA Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản KfW Ngân hàng Tái thiết Đức MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn MOC Bộ Xây dựng MOF Bộ Tài Chính MOLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội MONRE Bộ Tài nguyên và Môi trường M&E Theo dõi và Đánh giá MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư MPN Mật độ khuẩn lạc OD Kênh (Mương) Oxy hóa ODA Hỗ trợ Phát triển Chính thức 9 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam O&M Vận hành và Bảo dưỡng OPEX Chi phí vận hành PC/PPC Ủy ban nhân dân/ Ủy ban nhân dân tỉnh PPP Hợp tác Công - Tư PSP Sự tham gia của khối tư nhân QCVN Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia RBA Tiếp cận theo lưu vực sông SBR Bể phản ứng sinh học hoạt động theo mẻ SOE Hiện trạng môi trường SSS Hệ thống thoát nước riêng TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TF Bể lọc sinh học nhỏ giọt TN Tổng ni-tơ TSS Tổng chất rắn lơ lửng U3SAP Chiến lược thống nhất về Vệ sinh môi trường và Kế hoạch hành động VND Đồng Việt Nam UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc USD Đô la Mỹ WB Ngân hàng Thế giới WHO Tổ chức Y tế Thế giới WSP Chương trình Nước và Vệ sinh WWTP Trạm xử lý nước thải 10 BÁO CÁO TÓM TẮT báo cáo tóm tắt Giới thiệu 1. Việt Nam đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng do tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Trong 20 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng nhiều chính sách, ban hành nhiều văn bản pháp quy về vệ sinh môi trường đô thị cũng như đầu tư vào lĩnh vực này, trong đó có việc đầu tư xây dựng các hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. 2. Nghiên cứu này là một trong ba nghiên cứu quốc gia thực hiện ở các nước đang phát triển là Việt Nam, Phi-lip-pin và In-đô-nê-si-a trong Chương trình nghiên cứu về Vệ sinh môi trường đô thị các nước Đông Á. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả các hoạt động đã thực hiện, và kiến nghị các giải pháp nhân rộng cho Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này. Chính phủ và các ban ngành, địa phương có thể sử dụng các bài học kinh nghiệm rút ra từ đây để tiếp tục phát triển các hệ thống thoát nước, xử lý nước thải hiện nay và trong tương lai. 1. Hiện trạng hoạt động quản lý nước thải đô thị ở Việt Nam Các phát hiện chính trong hoạt động quản lý nước thải đô thị ở Việt Nam 3. Từ năm 1998, Chính phủ Việt Nam đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách cũng như đầu tư cải thiện vệ sinh đô thị, khiến lĩnh vực thu gom và xử lý nước thải phát triển mạnh mẽ. Các kết quả chính đạt được là: ●● Hoạt động cung cấp dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải cho cư dân đô thị, kể cả người nghèo được cải thiện đáng kể, không còn tình trạng đi vệ sinh bừa bãi. ●● 94% người dân sử dụng nhà vệ sinh1, trong đó 90% số hộ gia đình sử dụng bể tự hoại làm công trình xử lý tại chỗ2. ●● 60% hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước công cộng, thường là hệ thống cống chung3. ●● Đến năm 2012, 17 nhà máy xử lý nước thải đô thị đã được xây dựng ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, 5 dự án khác xây dựng ở các đô thị cấp tỉnh với tổng công suất là 530.000 m3/ngày. ●● Hiện nay có 32 dự án thoát nước và xử lý nước thải đô thị cấp tỉnh đang trong quá trình thiết kế/ thi công, chủ yếu vẫn dựa vào hệ thống thoát nước chung. ●● Trong thập niên vừa qua, đầu tư hàng năm vào lĩnh vực vệ sinh đô thị đạt 150 triệu Đô la Mỹ, chiếm 0,45% GDP hàng năm4. Tổng mức đầu tư cho thoát nước và xử lý nước thải giai đoạn 1995 – 2009 là 2,1 tỷ Đô la Mỹ. 4. Mặc dù đạt được những kết quả đáng khích lệ như vậy, lĩnh vực vệ sinh môi trường đô thị tiếp tục phải đối mặt với những vấn đề quan trọng cần nhanh chóng giải quyết như: ●● Mặc dù 60% hộ gia đình đấu nối vào HTTN công cộng, hầu hết nước thải được xả thẳng ra hệ thống tiêu thoát nước bề mặt, chỉ có 10% lượng nước thải được xử lý. ●● Trong khi 90% hộ gia đình xả nước thải vào bể tự hoại, chỉ 4% lượng phân bùn được xử lý. Công tác quản lý phân bùn ở hầu hết các thành phố còn yếu kém. ●● Vốn đầu tư vào lĩnh vực thu gom và xử lý nước thải tới nay hầu hết đều dành để xây dựng công trình xử lý, tuy nhiên không phải lúc nào cũng có mạng lưới thu gom phù hợp. 1 JMP, WHO – Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), 2008 2 Nguyễn V. A., 2012. 3 Nguyễn V. A., 2012. 4 Grontmij – Chương trình Nước và Vệ sinh (WSP), 2012. 13 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam ●● Việt Nam đang thu phí thoát nước ở mức 10% giá nước sạch, khả năng thu hồi chi phí đầu tư xây dựng và chi phí vận hành và bảo dưỡng nói chung còn thấp. ●● Các sắp xếp thể chế chưa khuyến khích hiệu quả vận hành hệ thống, các đơn vị chịu trách nhiệm thoát nước và xử lý nước thải có quyền tự chủ rất hạn chế trong hoạt động quản lý vận hành và phát triển hệ thống. ●● Nhu cầu vốn rất cao. Dự kiến cần tới 8,3 tỷ Đô la Mỹ để cung cấp đủ dịch vụ thoát nước cho khoảng 36 triệu người (tính theo dân số đô thị năm 2025). Việt Nam phải phấn đấu đáp ứng được nhu cầu vốn này, khi mức thiệt hại kinh tế do vệ sinh kém đang ước tính là 780 triệu Đô la Mỹ mỗi năm, tương đương 1,3% GDP (WSP, 2007). 5. Hiện trạng quản lý nước thải ở Việt Nam được minh họa bằng Hình 1 dưới đây. Hình 1: Hiện trạng quản lý nước thải đô thị tại Việt Nam Thoát nước trực tiếp (không qua Nước thải Tổng lượng bể tự hoại) thu gom nước thải 5% an toàn được xử lý 10% Bể tự hoại có thoát nước 55% Bùn thải Tổng lượng thu gom bùn thải xử lý Dân số đô thị Bể tự hoại không an toàn an toàn 25 triệu thoát nước 4% người 22% Nước thải, Công trình tại bùn thải không chỗ khác an toàn xả vào 18% môi trường Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2012 Phân tích kết quả hoạt động quản lý nước thải đô thị Việt Nam 6. Các nguyên tắc Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và Quản lý theo lưu vực sông. Mặc dù các văn bản pháp quy như Luật Tài nguyên Nước (1998, sửa đổi năm 2012), Luật Bảo vệ Môi trường (2005) quy định áp dụng các nguyên tắc “quản lý tổng hợp tài nguyên nước” và “quản lý theo lưu vực sông”, Uỷ ban lưu vực sông cũng đã được thành lập ở ba lưu vực sông chính của Việt nam, trên thực tế các nguyên tắc này vẫn chưa được áp dụng. 7. Sắp xếp thể chế và quyền sở hữu. Hầu hết các doanh nghiệp chịu trách nhiệm thoát nước và xử lý nước thải không sở hữu công trình thoát nước và xử lý nước thải mà chỉ vận hành hệ thống này theo “đặt hàng của chính quyền thành phố” và do ngân sách thành phố trực tiếp chi trả. Việc cấp cho doanh nghiệp lượng ngân sách cố định hàng năm để vận hành hệ thống khiến doanh nghiệp không thể đầu tư phát triển hoặc tìm cách tối ưu hóa hệ thống này. Doanh nghiệp phải được trình duyệt các chi phí phát sinh ngoài dự kiến lên các cơ quan quản lý của thành phố. Quy trình này mất nhiều thời gian và có thể ảnh hưởng đến dịch vụ thoát nước. 14 báo cáo tóm tắt 8. Tiêu chuẩn nước thải sau xử lý: Kể từ khi ban hành tiêu chuẩn đầu tiên (TCVN 5945:1995) vào năm 1995, các quy định về chất lượng nước thải sau xử lý đã thay đổi 6 lần trong giai đoạn 2000 – 2011, khiến chính quyền địa phương và các bên tham gia lúng túng khi thực hiện các dự án nước thải. Cần rà soát kỹ các chỉ tiêu trong tiêu chuẩn xả thải, và các công nghệ xử lý khi lựa chọn, để đảm bảo cả các giải pháp công nghệ chi phí thấp cũng được xem xét, tránh sức ép của việc tăng chi phí vận hành, trong khi giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải còn thấp. 9. Lựa chọn công nghệ xử lý nước thải. Mặc dù nước thải tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung của 13 nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động có nồng độ BOD và các thông số khác thấp5, 8 nhà máy áp dụng công nghệ xử lý với bùn hoạt tính truyền thống. 25 nhà máy đang trong quá trình thiết kế/ thi công cũng sẽ áp dụng công nghệ này. Các nguyên nhân khiến nước thải trong hệ thống thoát nước chung có nồng độ chất ô nhiễm thấp bao gồm: tỷ lệ đấu nối hộ gia đình thấp, thành phần hữu cơ trong nước thải được xử lý hay phân hủy sơ bộ trong bể tự hoại và kênh, mương thoát nước, nước ngầm xâm nhập vào hệ thống cống, và do đặc điểm của hệ thống thoát nước chung, nước mưa được thu gom lẫn với nước thải. Trong trường hợp này, lẽ ra có thể lựa chọn áp dụng các công nghệ xử lý chi phí thấp và cho phép nâng cấp, cải tiến dần, khi nồng độ các chất ô nhiễm tăng lên. Tuy nhiên, do người ra quyết định chưa hiểu biết thấu đáo về các công nghệ xử lý phù hợp, cũng như quỹ đất bố trí cho nhà máy xử lý nước thải rất hạn chế, khiến các công nghệ tiên tiến, có chi phí đắt hơn tiếp tục được lựa chọn. Các công trình có mức tiêu thụ điện thấp, có khả năng thu hồi tài nguyên từ bùn hoặc tái sử dụng nước thải sau xử lý còn chưa được chú trọng, ưu tiên lựa chọn từ khâu quy hoạch ở Việt Nam. 10. Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước công cộng: là hợp phần quan trọng, đảm bảo các chất ô nhiễm trong nước thải được vận chuyển về công trình xử lý, bất kể đó là hệ thống thoát nước chung hay riêng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nếu sử dụng hệ thống thoát nước chung, việc đấu nối của các hộ gia đình vào hệ thống thoát nước chưa là quy định bắt buộc. Nhiều trường hợp, các gia đình chỉ đấu nối khi nền đất không có khả năng thấm nước, họ chỉ có thể thoát nước ra khỏi nhà bằng cách đấu nối vào hệ thống cống. Hầu hết các hộ dân đều có bể tự hoại, do đó nước thải đã được xử lý sơ bộ trước khi chảy vào hệ thống thoát nước chung. 11. Hệ thống thoát nước riêng đòi hỏi các hộ gia đình trong khu vực cung cấp dịch vụ phải thực hiện đấu nối vì đây là nguồn cung cấp nước thải duy nhất cho hệ thống. Thông thường, chính quyền quy định bắt buộc thực hiện đấu nối hộ gia đình, bỏ qua bể tự hoại. Do vậy, các công trình xử lý tiếp nhận nguồn nước thải có nồng độ BOD cao hơn, như các nhà máy xử lý nước thải ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột6. 12. Quản lý phân bùn. Hiện nay chưa có một mô hình quản lý phân bùn hiệu quả nào ở Việt Nam. Hoạt động hút phân bùn bể tự hoại mới chỉ được thực hiện định kỳ ở một thành phố (Hải Phòng). Tại một số thành phố, phân bùn được xử lý tại trạm xử lý nước thải hoặc tại bãi chôn lấp rác thải. Bể tự hoại gia đình hầu hết đều không được thiết kế và vận hành đúng kỹ thuật. Hoạt động thông hút, vận chuyển và đổ thải phân bùn hầu hết do khối tư nhân đảm nhiệm và chính quyền chưa kiểm soát được. Đây là tình trạng xảy ra phổ biến và gây ra nhiều vấn đề môi trường ở các đô thị Việt Nam. 13. Nguồn vốn tài trợ: 10 năm qua, vốn đầu tư vào vệ sinh môi trường đô thị, đặc biệt là thu gom và xử lý nước thải ở các thành phố lớn và trung bình ngày càng tăng, chủ yếu là vốn ODA. Tuy nhiên, ở một 5 Nồng độ BOD trung bình trong nước thải đầu vào của 13 nhà máy xử lý nước thải này là 67,5mg/l (xem Bảng 1.1 - Báo cáo chính) 6 Xem Bảng 1.1, Báo cáo chính. 15 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam số dự án, việc phân bổ vốn giữa các hạng mục như đầu tư xây dựng công trình xử lý và phát triển hệ thống thu gom còn chưa cân đối, do vậy hiệu quả vốn đầu tư chưa cao. Cần xây dựng một chiến lược hoặc chương trình phù hợp để định hướng đầu tư, nhằm giải quyết các vấn đề môi trường và sức khỏe cộng đồng cụ thể một cách hiệu quả và có kế hoạch đầu tư phù hợp. 14. Cam kết tài chính và thu hồi chi phí: Mặc dù thu hồi chi phí là yếu tố cần thiết để đảm bảo tính bền vững tài chính cho công trình, Việt Nam chưa chú trọng thực hiện các giải pháp nhằm thu hồi được chi phí. Đa số chính quyền địa phương hiện nay vẫn tiếp tục trợ cấp các chi phí vận hành. Mặc dù Nghị định 88 quy định rõ nguyên tắc thu hồi chi phí, chính quyền địa phương cần cam kết và thực hiện trong quá trình quản lý thực tế. Chi phí vận hành và bảo dưỡng và khả năng thu hồi chi phí cũng còn phụ thuộc vào mức độ công nghệ áp dụng. 15. Sự tham gia của khối tư nhân. Việt Nam chưa có các chính sách ưu đãi về tài chính và hoạt động để khuyến khích khối tư nhân tham gia lĩnh vực thu gom và xử lý nước thải. Biểu phí chưa phù hợp và hệ thống quy phạm pháp luật kém hiệu quả là những nguyên nhân chính cản trở sự tham gia của khối tư nhân. Tới nay, Việt Nam mới thực hiện được rất ít dự án thoát nước và xử lý nước thải có sự tham gia của khối tư nhân.7 16. Nhận thức cộng đồng và thay đổi hành vi. Hầu hết các công ty thoát nước chưa quan tâm đến lợi ích mang lại từ hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng. Vốn đầu tư vào lĩnh vực vệ sinh môi trường thường theo chỉ đạo từ trên xuống và được nhà nước hỗ trợ, trong đó phần đóng góp của cộng đồng là rất nhỏ. Kết quả là cộng đồng không hiểu được các lợi ích môi trường và sức khỏe cộng đồng của việc xây dựng và vận hành tốt hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. Do vậy, họ chưa nhiệt tình trả phí để góp phần thu hồi chi phí và miễn cưỡng đấu nối công trình nhà mình vào hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. 2. Những thông điệp chính và kiến nghị Thông điệp gửi tới các nhà quản lý cấp trung ương xem xét 17. Xây dựng Chiến lược quốc gia, áp dụng những nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Cân nhắc xây dựng một Chiến lược quốc gia, áp dụng những nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý theo lưu vực sông trong vệ sinh môi trường đô thị, để duy trì cam kết của Chính phủ về cải thiện điều kiện vệ sinh, cũng như đưa vệ sinh đô thị vào chương trình nghị sự. Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và Luật Tài nguyên nước 2012 là cơ sở để ban hành các quy định pháp luật, các cơ chế điều phối trong lĩnh vực vệ sinh đô thị, huy động các nhà cung cấp dịch vụ và tập trung vào việc kiểm soát chất lượng nước tại các lưu vực sông, cũng như tăng cường giám sát hoạt động ngành ở cấp trung ương. Phương thức này cho phép lồng ghép các hợp phần cấp nước, vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân, cải thiện sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, khối tư nhân và cộng đồng. Tiếp theo đó, việc xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về vệ sinh đô thị cũng sẽ đảm bảo cho tính bền vững của các kết quả thu được từ những nỗ lực trên, đồng thời làm cơ sở để xác định các thứ tự ưu tiên đầu tư, tăng cường năng lực về kỹ thuật và thể chế, thiết lập cơ chế tài chính phù hợp để huy động và tập trung các nguồn lực nhằm đáp ứng các ưu tiên đó. 18. Phát triển các chính sách và cơ chế phù hợp về tài chính cho lĩnh vực vệ sinh, kể cả đầu tư và vận hành, bảo dưỡng. Các nguồn tài chính có thể bao gồm cả vốn nay, viện trợ, trái phiếu chính phủ, các chính sách thuế và phí, các mô hình hợp tác công tư và các nguồn tài chính sáng tạo khác, ví dụ như 7 Hiện nay chỉ các dự án xây dựng và chuyển giao ở Hà Nội và Đà Nẵng khuyến khích được sự tham gia của khu vực tư nhân. 16 báo cáo tóm tắt tính thuế tài sản. Tăng giá dịch vụ thoát nước là công cụ quan trọng để đảm bảo thu hồi được chi phí vận hành – bảo dưỡng cũng như đảm bảo hệ thống hoạt động bền vững. 19. Xây dựng các chính sách về cải tổ doanh nghiệp trong lĩnh vực vệ sinh... Lĩnh vực này sẽ hưởng lợi từ việc tạo môi trường thuận lợi để hình thành các tổ hợp hay doanh nghiệp tư nhân, cung cấp các dịch vụ lồng ghép, bao gồm cả cấp nước, thoát nước, vệ sinh và quản lý phân bùn. Phương thức này đòi hỏi một cơ chế thuận lợi cho việc tự chủ của doanh nghiệp, áp dụng phương thức quản lý theo kết quả dịch vụ vận hành và bảo dưỡng, thay đổi cách tính giá dịch vụ để đảm bảo thu hồi chi phí, xây dựng mô hình quản lý mới, kể cả phương án hình thành một đơn vị quản lý độc lập, và cung cấp các chương trình tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. 20. Xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích mô hình Đối tác công – tư (PPP) và sự tham gia của khối tư nhân (PSP). Chính sách khuyến khích khối tư nhân tham gia vào lĩnh vực vệ sinh môi trường bao gồm các hoạt động cải thiện môi trường kinh doanh như tăng khả năng tiếp cận vốn vay và tăng phí thoát nước nhằm đảm bảo thu hồi chi phí vận hành – bảo dưỡng. Kết hợp các dịch vụ cấp thoát nước và xử lý nước thải là một biện pháp giúp lĩnh vực này hấp dẫn khối tư nhân hơn. Các nhà đầu tư tư nhân tham gia phát triển địa ốc có thể đưa chi phí đầu tư cơ bản công trình thu gom và xử lý nước thải vào giá thành bán cho khách hàng theo giá thị trường, nhờ đó giảm chi tiêu ngân sách Nhà nước. Có một số mô hình khuyến khích khối tư nhân tham gia có thể áp dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên cần lưu ý rằng đầu tư của khối tư nhân kết hợp với vốn đầu tư của nhà nước cần đảm bảo có kết quả là xây dựng được hệ thống thoát nước và xử lý nước thải hoàn thiện bao gồm các công trình đấu nối, mạng lưới và công trình xử lý. Bên cạnh đó, các công trình hạ tầng xây dựng bởi khối tư nhân phải phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị. Khuyến khích khối tư nhân tham gia quản lý phân bùn cũng thực sự mang lại hiệu quả, khi năng lực của các doanh nghiệp công ích hạn chế. 21. Quy định chất lượng nước thải sau xử lý một cách linh hoạt, tùy theo nguồn tiếp nhận. Khi thiết kế công trình xử lý, cần xem xét khả năng tiếp nhận của nguồn tiếp nhận nước thải, cũng như chất lượng nước thải đầu vào. Các tiêu chuẩn nước thải sau xử lý quy định hiện nayđòi hỏi nước thải phải được xử lý bậc cao để đảm bảo đạt các chỉ tiêu về a-mô-ni và tổng ni-tơ, do vậy loại trừ khả năng áp dụng các công nghệ chi phí thấp như chuỗi hồ sinh học hoặc bể lọc sinh học nhỏ giọt. Kết quả là chi phí vận hành – bảo dưỡng công trình thường rất cao. Có một số giải pháp thu gom và xử lý nước thải có chi phí hợp lý, có thể áp dụng trong các hệ thống xử lý nước thải phân tán như hệ thống thoát nước giản lược, bể tự hoại với các vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí, bãi lọc trồng cây, hay công trình vệ sinh công cộng có thu hồi khí sinh học. Tuy nhiên, các hệ thống xử lý này có thể chưa cho phép đạt các yêu cầu của tiêu chuẩn thải hiện hành. Cách tiếp cận phù hợp là, trong giai đoạn đầu, nên áp dụng tiêu chuẩn xả thải có các yêu cầu về các thông số chất dinh dưỡng thấp, hoặc không yêu cầu (nếu nguồn tiếp nhận nước không có yêu cầu khắt khe), sau đó sẽ áp dụng từng bước các tiêu chuẩn cao hơn theo thời gian, theo sự phát triển của hệ thống thoát nước đô thị cũng như khả năng huy động vốn. Thông điệp gửi tới chính quyền và các đơn vị cung cấp dịch vụ ở địa phương xem xét 22. Lập quy hoạch vệ sinh môi trường cho toàn thành phố/ lưu vực sông. Phương thức này cần tính đến đầy đủ các khía cạnh xã hội, kỹ thuật, thể chế và kinh tế có thể tác động đến khả năng cung cấp được một dịch vụ bền vững tới tất cả các hoạt động của cộng đồng đô thị. Quy hoạch vệ sinh môi trường cần đáp ứng đúng các như cầu của người sử dụng, khuyến khích nâng cao chất lượng dịch vụ, quản lý hệ thống hiệu quả, cho phép cân nhắc áp dụng linh hoạt các giải pháp công nghệ khác nhau, tùy từng 17 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam điều kiện cụ thể. Quy hoạch vệ sinh môi trường và cung cấp dịch vụ cần phải xem xét các nhu cầu và phát triển các dịch vụ về hạ tầng từ các khu dân cư hay cộng đồng, coi đây là cấp đầu tiên. 23. Hoàn thiện các quy định thể chế và pháp luật ở địa phương. Tổ chức thể chế ở mỗi tỉnh, thành phố có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả chuẩn bị, thực hiện dự án và vận hành khai thác công trình. Để cải thiện hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ, cần thay thế mối quan hệ dựa vào cơ chế đặt hàng hàng năm giữa chính quyền đô thị với đơn vị được giao quản lý hệ thống thoát nước và xử lý nước thải (quản lý tài sản) với hiện nay bằng hợp đồng quản lý vận hành hệ thống, cung cấp dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải. Cần thiết lập một cơ quan giám sát với thành viên là chính quyền tỉnh và đại diện cộng đồng để phê duyệt đơn giá và biểu giá dịch vụ thoát nước. Cần có những quy định rõ ràng về đấu nối, xây dựng bể tự hoại, yêu cầu hút bùn định kỳ, các hoạt động quản lý phân bùn được kiểm soát trong quy định về quản lý hệ thống thoát nước do chính quyền địa phương ban hành. 24. Lựa chọn xây dựng hệ thống xử lý phân tán hay tập trung theo điều kiện của địa phương. Không nên quan niệm hệ thống xử lý tập trung có thể giải quyết tất cả các vấn đề vệ sinh môi trường. Nên cân nhắc áp dụng hệ thống xử lý phân tán tại các khu vực mà hệ thống tập trung không thể phục vụ hiệu quả về mặt kinh tế. Những hệ thống này sau có thể dần được thay thế hay mở rộng quy mô, thành các hệ thống thu gom và xử lý tập trung, khi mật độ dân cư tăng lên. Trong quá trình xây dựng chiến lược vệ sinh môi trường toàn thành phố, khi mới bắt đầu lập quy hoạch, cần xác định sẽ phát triển hệ thống tập trung và hệ thống phân tán, thoát nước mưa và thoát nước – xử lý nước thải, theo từng giai đoạn. Quyết định phân kỳ dự án và lựa chọn khu vực ưu tiên đầu tư cần dựa trên cơ sở phân tích toàn diện, trong đó chú trọng yếu tố chi phí thấp nhất và phù hợp khả năng chi trả. 25. Lựa chọn công nghệ xử lý nước thải phù hợp. Cần quan tâm hơn nữa đến công tác lựa chọn công nghệ xử lý. Công nghệ xử lý cần phù hợp với đặc tính nước thải đầu vào, điều kiện cụ thể của khu vực và nguồn tiếp nhận nước. Cần khuyến khích cán bộ chịu trách nhiệm tham gia vào quá trình lựa chọn công nghệ và thiết kế, để đảm bảo các công nghệ được lựa chọn và công trình được thiết kế thành công, mang lại lợi ích về mặt kinh tế - tài chính, với chi phí phù hợp với khả năng chi trả của địa phương. Bể tự hoại sẽ còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng xử lý sơ bộ nước thải hộ gia đình ở các khu đô thị hiện có với hệ thống thoát nước chung. Bể tự hoại và quản lý phân bùn bể tự hoại cần phải được coi như các hợp phần không thể tách rời của hệ thống thoát nước. 26. Đảm bảo thực hiện đấu nối hộ gia đình trong quá trình phát triển hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. Đấu nối hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thành công các dự án thoát nước và xử lý nước thải; công tác này phải được lồng ghép vào trong quá trình lập kế hoạch và tài trợ chương trình. Cần cải thiện chất lượng và gia tăng số lượng đấu nối hộ gia đình vào hệ thống cống, cho dù là hệ thống thoát nước chung hay riêng để có thể sử dụng hiệu quả nhất hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải đô thị. Để làm được điều đó, cần bắt đầu bằng cách quy định bắt buộc các hộ gia đình, cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp trong khu vực có mạng lưới thu gom nước thải phải thực hiện đấu nối. 27. Xây dựng lộ trình tăng doanh thu và tiến tới thu hồi chi phí. Chi phí quản lý và vận hành – bảo dưỡng hệ thống thu gom và xử lý nước thải sẽ do người tiêu dùng chi trả thông qua giá dịch vụ thoát nước. Chính quyền địa phương cần có quan điểm tích cực đối với việc tăng giá dịch vụ thoát nước nhằm đảm bảo thu hồi chi phí. Mức thu hồi chi phí càng cao, càng đáp ứng nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiền” và công trình càng bền vững về mặt tài chính. Cơ quan vận hành cùng với chính quyền tỉnh cần có động thái chủ động, tích cực để tăng doanh thu, trang trải chi phí vận hành. Có thể tăng dần giá dịch vụ theo thời gian, nhằm tránh gây căng thẳng kinh tế - xã hội cho cộng đồng. Có thể hỗ trợ tài chính cho các hộ nghèo xây dựng công trình vệ sinh thông qua hỗ trợ giảm giá hoặc các chương trình tài trợ vi mô như tín dụng vi mô và quỹ quay vòng. 18 báo cáo tóm tắt 28. Nâng cao năng lực cho các đơn vị có liên quan ở địa phương. Cần xây dựng năng lực cho tất cả các đơn vị tham gia quản lý vệ sinh môi trường đô thị, từ trung ương đến địa phương. Hoạt động này bao gồm nâng cao năng lực cho các đơn vị cung cấp dịch vụ và chủ sở hữu các công trình vệ sinh môi trường. Năng lực được cải thiện, hiệu quả phối hợp được nâng cao sẽ giúp dự án thực hiện hiệu quả. Cùng với các công trình kỹ thuật, cần thực hiện “các biện pháp mềm” như xây dựng năng lực, sắp xếp thể chế và tài chính. Chính quyền địa phương cần đảm bảo tất các bên liên quan, từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân viên trong công ty công ích và đơn vị cung cấp dịch vụ nâng cao được nhận thức chung về các vấn đề kỹ thuật, môi trường, quản lý, thể chế, xã hội và có kỹ năng cần thiết để phát triển dự án và cung cấp dịch vụ thành công. 29. Nâng cao nhận thức của khách hàng sử dụng dịch vụ vệ sinh môi trường. Cũng như chính quyền địa phương cần có “công cụ” để tính giá dịch vụ vệ sinh, người sử dụng dịch vụ cũng cần nhận thức được lợi ích mà dịch vụ mang lại và sẵn sàng trả chi phí dịch vụ. Các dự án thoát nước và xử lý nước thải cần thực hiện chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề vệ sinh nói chung và nhận thức về các lợi ích mà hệ thống vệ sinh này mang lại. Nhờ đó người sử dụng dịch vụ sẽ tích cực tham gia đấu nối đường ống thoát nước trong nhà vào hệ thống thoát nước công cộng, sẵn sàng chi trả giá dịch vụ, từ đó doanh nghiệp tăng doanh thu và cải thiện được hiệu quả thu hồi chi phí. Các chiến dịch truyền thông cũng có thể được sử dụng để tuyên truyền về các quy định về quản lý nước thải, bao gồm cả các nội dung như thiết kế và xây dựng bể tự hoại, hút bùn định kỳ, quản lý phân bùn có kiểm soát. 19 BÁO CÁO CHÍNH báo cáo chính 1. Đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nước thải đô thị 1.1. Bối cảnh và giới thiệu 1. Nghiên cứu ở Việt Nam là một phần của Nghiên cứu VSMT Đông Á. Đây là một nghiên cứu khu vực, tập trung vào ba quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình ở Đông Á là In-đô-nê-si-a, Việt Nam và Phi-líp-pin. Nghiên cứu này nhằm xây dựng một khung chiến lược khu vực, hỗ trợ các quốc gia xây dựng và thực hiện các chương trình VSMT đô thị cấp quốc gia ở khu vực Đông Á. Dự kiến khung chiến lược phát triển trong dự án này sẽ là nguồn tham khảo cho các cấp lãnh đạo xây dựng và triển khai có hiệu quả hơn các chiến lược cải thiện VSMT đô thị. Khung chiến lược khu vực này cũng sẽ hỗ trợ các trao đổi cấp quốc gia giữa các tổ chức tài chính quốc tế, các nhà tài trợ và đối tác ở ba quốc gia này. 2. Các nghiên cứu quốc gia, được thực hiện ở ba nước, đóng góp cho việc biên soạn báo cáo nghiên cứu khu vực. Nghiên cứu ở Việt Nam xem xét kỹ các hoạt động VSMT đô thị, chú trọng vào các mối quan hệ tương tác và các vấn đề liên quan đến nhiều khía cạnh như kinh tế chính trị, xã hội, chính sách, kỹ thuật, tài chính và thể chế khi mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ VSMT cho người dân (bao gồm cả người nghèo) một cách phù hợp và bền vững. 3. Để phục vụ cho nghiên cứu ở Việt Nam, hai đợt công tác thực địa trong thời gian từ 29/03/2012 đến 31/08/2012 đã được thực hiện. Báo cáo đã được nhóm chuyên gia phản biện, các tổ chức tài chính quốc tế và phía đối tác Việt Nam góp ý trong thời gian tháng 11 – 12/2012. Ngoài ra, một hội thảo tham vấn cũng đã được tổ chức ở Hà Nội vào ngày 13/12/2012. Ý kiến góp ý của các chuyên gia phản biện và các đại biểu trong hội thảo đã được tiếp thu vào báo cáo cuối cùng này. 1.2. Lịch sử phát triển VSMT đô thị ở Việt Nam 4. Vệ sinh môi trường đô thị ở Việt Nam thể hiện rõ nét ở hai nhóm: nhóm 1 – các dự án VSMT đang triển khai ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng; nhóm 2 – các dự án VSMT thực hiện ở các đô thị cấp tỉnh. Trong từng nhóm, điều kiện cụ thể của các dự án cũng khác nhau và ảnh hưởng đến việc ra quyết định áp dụng chính sách VSMT. 5. Hệ thống thoát nước bề mặt được xây dựng ở hầu hết các đô thị với mục tiêu ban đầu nhằm thu gom nước mưa và chống úng ngập. Về sau, do dân cư ngày càng đông, các hộ gia đình cần phải thoát nước thải của mình. Nhu cầu này được đáp ứng bởi hệ thống thoát nước mưa, và hệ thống này trở thành hệ thống thoát nước chung, thu gom cả nước mưa và nước thải trong cùng một mạng lưới cống (Hình 1.1). Sau này, hệ thống thoát nước riêng được xây dựng ở một số nơi ở Việt Nam, thu gom riêng lượng nước thải và loại bỏ nước mưa và nước chảy tràn bề mặt; tuy nhiên số lượng hệ thống thoát nước riêng hiện còn rất hạn chế. 6. Trước năm 2000, hoạt động xử lý nước thải ở Việt Nam hầu như chỉ được thực hiện trong các công trình vệ sinh tại chỗ như bể tự hoại, công trình được người Pháp mang đến Việt Nam từ thế kỷ 19 trong thời kỳ thuộc địa. Sau đó, công trình này được sử dụng rộng rãi, với quy định tất cả các hộ gia đình phải xây dựng công trình vệ sinh tại chỗ. Ở các đô thị lớn, ước tính trên 90% hộ gia đình có công trình vệ sinh tại chỗ, thường là bể tự hoại (WHO – UNICEF, 2008; WB – Hydroconceil & PEM, 2008; Nguyễn V. A. và cộng sự, 2011). 7. Khi dân số đô thị tăng, lượng nước thải phát sinh tác động đến nguồn tiếp nhận nước và làm nảy sinh nhu cầu thu gom và xử lý nước thải để xả thải an toàn hơn. Việc quy hoạch và thiết kế nhà máy xử lý nước 23 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam thải đầu tiên ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện khoảng năm 2000 và đến cuối năm 2012, Việt Nam có tổng cộng 17 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung, khá ít so với con số trên 87 triệu dân trên cả nước. Trong số đó, 12 nhà máy được xây dựng ở 3 thành phố là Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, 5 nhà máy còn lại nằm rải rác ở các đô thị cấp tỉnh. Ngoài ra hiện nay cả nước có trên 30 dự án xử lý nước thải đô thị trong quá trình thiết kế hoặc xây dựng. Quá trình triển khai đến nay còn chậm do một số nguyên nhân như chính quyền chưa nhiệt tình, chưa ra quyết định kịp thời khiến công tác thiết kế và thi công bị chậm và các nguyên nhân khác như trình bày trong Nghiên cứu điển hình số 5, Phụ lục C. Hình 1.1 Hệ thống thoát nước chung điển hình ở các đô thị Việt Nam Nguồn: theo Nguyễn V. A., 2004 Với nhiều dự án đang trong giai đoạn thiết kế hoặc thi công, lĩnh vực VSMT đô thị ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải. Phụ lục B trình bày tóm tắt các dự án VSMT đang trong giai đoạn thiết kế hoặc thi công. 1.2.1. Phát triển VSMT ở các thành phố lớn 8. Do đặc điểm đặc thù, các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng được xem xét riêng. Tại các thành phố này, mục tiêu phát triển hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải là để giải quyết các vấn đề VSMT đô thị quan trọng có liên quan đến tình trạng dân cư đông đúc và thiếu công trình tiêu thoát lượng nước thải phát sinh ngày càng lớn. 9. Thành phố lớn đầu tiên ở Việt Nam phát triển hạ tầng thoát nước là Hà Nội với hai hệ thống thu gom và xử lý nước thải do JICA tài trợ phục vụ khu vực hồ Kim Liên và Trúc Bạch, đi vào hoạt động từ năm 2005. Hai trạm này có công suất nhỏ (Kim Liên có công suất là 3.700 m3/ngày và Trúc Bạch là 2.300 m3/ngày) vì đây là dự án thí điểm để chính quyền địa phương hiểu rõ hơn cách thức áp dụng VSMT đô thị ở các khu vực thành phố lớn. Các trạm xử lý nước thải này giúp giảm ô nhiễm cho các mương, hồ tiếp nhận nước thải và nước mưa chưa xử lý. Hai trạm đều áp dụng công nghệ bùn hoạt tính cải tiến (A2O). Mỗi trạm chỉ xử lý một phần nhỏ của khu vực tiêu thoát nước. 24 báo cáo chính 10. Dự án khác do JICA tài trợ sau đó là nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long được xây dựng để phục vụ khu vực dân cư có số dân dự kiến là 150.000 người. Mặc dù nhà máy đã vận hành từ năm 2009, hệ thống cống thoát nước chung mà chính quyền địa phương hứa xây dựng để phục vụ khu vực này vẫn chưa được thi công vì hợp phần này không thuộc vốn tài trợ của JICA mà lấy vốn từ ngân sách địa phương. Chính quyền phải quyết định dẫn nước thải với lưu lượng 7.000 m3/ngày đã xử lý sơ bộ từ một khu công nghiệp gần đó đến nhà máy Bắc Thăng Long để tiếp tục xử lý; tuy nhiên lượng nước này chỉ đạt 17% tổng công suất thiết kế là 42.000m3/ngày. Tình trạng này cho thấy cần xây dựng đồng bộ công trình thu gom và xử lý nước thải để tránh lãng phí vốn đầu tư. 11. Công trình hạ tầng VSMT mới xây của thành phố Hà Nội là nhà máy xử lý nước thải Yên Sở có công suất 200.000 m3/ngày áp dụng công nghệ xử lý bùn hoạt tính phản ứng theo mẻ (SBR). Phạm vi phục vụ là tất cả các tuyến cống thoát nước dẫn đến sông Kim Ngưu (125.000m3/ngày) và sông Sét (75.000m3/ngày), vì đây là nguồn cấp nước thải chính cho nhà máy xử lý nước thải Yên Sở. Do việc xây dựng hệ thống thu gom nước thải không nằm trong khuôn khổ dự án, nên sông Kim Ngưu và sông Sét được sử dụng để dẫn cả nước mưa và nước thải đến nhà máy. Thời gian lưu nước trên hệ thống cống và sông thoát nước dài khiến nồng độ BOD trong nước thải giảm, gây ảnh hưởng đến sự hoạt động của công trình xử lý. Nồng độ BOD giảm cũng làm mất cân đối tỷ lệ giữa Các-bon và Ni-tơ (C: N) trong nước thải thô, khiến nhà máy gặp khó khăn trong việc đạt tiêu chuẩn xả thải đặc biệt với chỉ tiêu chất dinh dưỡng (Ni-tơ). 12. Ở thành phố Hồ Chí Minh, có ba dự án tiêu biểu về phát triển VSMT đô thị. Đầu tiên là dự án do chính phủ Bỉ tài trợ ở Bình Hưng Hòa, xử lý nước thải từ hệ thống kênh thoát nước chung. Hệ thống hồ hiếu khí và hồ sinh học được xây dựng trên diện tích khá lớn (37 ha). Đây là công nghệ chi phí thấp, độc đáo giúp xử lý nước thải cho khu vực đô thị đông dân này. Nhà máy tiếp nhận nước thải có nồng độ chất ô nhiễm không cao và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường. Vận hành từ năm 2006, nhà máy Bình Hưng Hòa có công suất thiết kế là 46.000m3/ngày, nhưng hiện nay mới chỉ xử lý 30.000m3/ngày. 13. Tiếp theo là dự án thành phố Hồ Chí Minh – giai đoạn 1 do JICA tài trợ, thoát nước cho khu vực dân cư đông đúc ở quận 1 và quận 5 và dẫn về nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng. Dự án bắt đầu từ năm 2009 nhưng thời gian triển khai dự án bị kéo dài hơn dự kiến do những vấn đề liên quan đến thi công tuyến cống bao đường kính lớn trên các đường phố đông đúc. Nhà máy áp dụng công nghệ xử lý nước thải bằng bùn hoạt tính truyền thống (CAS) có công suất ban đầu là 141.000m3/ngày, dự kiến sẽ nâng lên 512.000m3/ ngày song song với việc mở rộng mạng lưới thu gom nước thải trong giai đoạn tiếp theo.8 14. Dự án thứ ba là xây dựng hệ thống thoát nước chung kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, đang triển khai với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới. Dự án này không bao gồm nhà máy xử lý nước thải nhưng đã cải thiện đáng kể điều kiện môi trường ở khu vực. Khu vực dự án trước đây từng là khu ổ chuột đông người sinh sống hình thành trên một kênh thoát nước ô nhiễm trầm trọng do tiếp nhận tất cả lượng nước thải phát sinh trong khu vực. Dự án hoàn tất vào năm 2011 cho thấy có thể cải thiện VSMT bằng cách xây dựng hệ thống cống bao để phục hồi nguồn tiếp nhận nước. Trước khi triển khai dự án, khu vực này bị ô nhiễm nghiêm trọng và có nhiều vấn đề xã hội. Hỗn hợp nước mưa và nước thải trước đây xả thẳng xuống kênh khiến kênh bị ô nhiễm giờ được dẫn đến các giếng tách rồi chảy vào các đường ống riêng. Trong giai đoạn 2, dự án sẽ xây dựng một nhà máy xử lý nước thải ở quận 2 với công suất thiết kế là 480.000m3/ngày, thay cho việc thoát nước trực tiếp vào sông Sài Gòn như hiện nay. Cần lưu ý rằng hệ thống thoát nước riêng đã được đề xuất xây dựng ở Quận 2. Nước thải loại B là nước thải xả vào nguồn nước không phục vụ mục đích cấp nước sinh hoạt. 8 25 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 15. Ở Đà Nẵng, thành phố sử dụng hệ thống thoát nước chung để thu gom nước thải cho 4 nhà máy xử lý áp dụng cùng một công nghệ là hồ yếm khí có phủ bạt kín. Ban đầu các nhà máy này được thiết kế là các hồ yếm khí không phủ bạt. Tuy nhiên, do nhà máy nằm gần khu vực dân cư cũng như các vấn đề về ô nhiễm mùi, tất cả các hồ này đã được Ngân hàng Thế giới tài trợ (năm 2008) để phủ bạt kín. Với tổng công suất thiết kế là 64.400 m3/ngày, bốn nhà máy xử lý nước thải ở Đà Nẵng phục vụ cho 378.000 người, tương đương 40% dân số thành phố. Tuy nhiên cần lưu ý đến đặc điểm của hệ thống thoát nước chung là nồng độ chất hữu cơ (BOD) thấp, do đó việc xử lý nước thải là không cần thiết vào mùa mưa; tình trạng này khiến các đơn vị vận hành không sử dụng các trạm bơm có giếng tách nước mưa, và hỗn hợp nước thải và nước mưa được xả thắng vào nguồn tiếp nhận, bao gồm cả bãi biển ở bán đảo Sơn Trà. 1.2.2. Phát triển VSMT ở các đô thị cấp tỉnh 16. Nhóm thứ hai là các dự án VSMT ở cấp tỉnh. Các công trình này áp dụng các giải pháp kỹ thuật khá đa dạng khi thu gom (thoát nước chung hay riêng) và xử lý (từ chuỗi hồ sinh học đơn giản đến xử lý bằng bùn hoạt tính phức tạp). Hình 1.2 Xây dựng cống thoát nước chính 17. Trong các dự án thoát nước và xử lý nước thải ở thành phố Hà Nội cấp tỉnh, hầu hết công trình thoát nước của hộ gia đình lâu nay đấu nối trực tiếp vào hệ thống thoát nước một cách tùy tiện. Đây là tình trạng xảy ra ở thành phố Bắc Giang và hai khu vực thoát nước ở Quảng Ninh. Tuy nhiên thành phố cao nguyên như Đà Lạt và Buôn Ma Thuột cũng như ở Phú Mỹ Hưng (khu đô thị mới ở thành phố Hồ Chí Minh) lại sử dụng hệ thống thoát nước riêng, hoàn toàn không thu gom nước mưa. Nước thải mà nhà máy xử lý tiếp nhận từ hệ thống thoát nước riêng có nồng độ các chất ô nhiễm cao hơn nhiều so với từ hệ thống thoát nước chung (vốn có nồng độ các chất hữu cơ thấp hơn). 18. Công nghệ áp dụng ở 5 nhà máy xử lý nước Ảnh: Nguyễn V. A., 2005 thải cấp tỉnh có trình độ kỹ thuật rất khác nhau, từ rất đơn giản đến phức tạp. Công trình VSMT đầu tiên hoạt động năm 2006 là ở Đà Lạt (công suất thiết kế là 7.000m3/ngày) và Buôn Ma Thuột (công suất thiết kế là 8.125 m3/ngày). Hai nhà máy do Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Đan Mạch tài trợ xây dựng này đều áp dụng các giải pháp chi phí thấp để xử lý nước thải là bể lọc sinh học nhỏ giọt và chuỗi hồ sinh học. Sau này, các nhà máy xử lý nước thải Bãi Cháy (2007, công nghệ bùn hoạt tính hoạt động theo mẻ SBR), Hà Khánh (2009, SBR), Châu Đốc (2011, hồ hiếu khí), Bắc Giang (2012, mương oxy hóa) áp dụng giải pháp công nghệ cao hơn. 19. Đặc điểm chung khi phát triển VSMT ở hầu hết các đô thị Việt Nam là phát triển không có kế hoạch, tình trạng này gây ra nhiều khó khăn cho công tác phát triển hạ tầng. Mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương đã cố gắng xây dựng chính sách phát triển VSMT phù hợp, nhưng các mô hình quản lý truyền thống và những hạn chế về thể chế vẫn còn tồn tại, cản trở sự phát triển và quản lý hiệu quả hạ tầng đô thị, bao gồm cả hạ tầng vệ sinh. Hình 1.3 dưới đây trình bày lịch sử phát triển lĩnh vực vệ sinh môi trường ở Việt Nam. 26 báo cáo chính Hình 1.3 Quá trình phát triển lĩnh vực vệ sinh đô thị ở Việt Nam 1982: Bản đồ thoát nước của 1883: Pháp chiếm Hà Nội Hebrad. Hà Nội thay đổi 1890: Bản đồ thoát nước theo 1890 hướng thoát nước từ Đông phong cách Tây Âu được lập sang Nam do nâng cao hệ Những năm 1890: các tòa nhà bắt đầu thống đê dọc sông Hồng và sử dụng bể tự hoại mở rộng thành phố 1928 Hội nghị Geneve Hòa Bình lập lại ở Tiếp tục cải thiện hệ thống miền bắc VN, Chia cắt hai miền thoát nước chung ở khu vực Nam - Bắc trung tâm Hà nội và các thành 1954 phố khác: Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương,... 1975: Việt Nam thống nhất đất nước Phát triển hệ thống thoát nước Xây dựng một vài NMXL quy mô 1975 nhỏ cho các bệnh viện và các Bộ luật đầu tiên về thi công và thiết kế tòa nhà hệ thống quản lý nước thải 1995-2000: Dự án nước thải của JICA tại HN (GĐI), HCM (GDDI); 1985 dự án VSMT 3 thành phố của WB 1995: Ban hành Luật bảo vệ môi trường tại Hải Phòng, Hạ Long, Đà Nẵng. Các dự án bỏ tại BMT, Việt Trì, Thái Nguyên, Huế (ADB, Đức, Đan Mạch, Canada, Pháp, Bỉ, Chỉ thị của Bộ Chính Trị về Bảo vệ môi 1995 Thụy Sĩ) trường số 36 (1998), 41 (2004), 29 (2009) 2001-2010: Dự án của WB: NL-TN tại 1999: Quyết định số 35/TTg của Thủ HCM, nâng cấp đô thị, ưu tiên phát 2000 tướng CP về Định hướng thoát nước triển CSHT các thành phố trung bình, đô thị và khu công nghiệp đến năm 2020 duyên hải,v.v; Dự án JICA tại HN (GĐ II), HCM, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bình 2000: Chiến lược quốc gia về Nước Dương, Huế,v.v; Dự án của ADB và các 2005 nhà tài trợ khác như KfW, Danida, sạch và VSMT đến năm 2020 Pháp,v.v tại Bình Dường, Vĩnh Phúc, Trà Nóc, Thanh Hóa, các thị trấn nhỏ 2003: NĐ 67/2003 về phí bảo vệ môi trường 2007 NMXLNT đô thị đầu tiên đi vào hoạt động: Kim Liên và Trúc Bạch (Hà Nội, 2005), Buôn Ma Thuột và Đà Lạt NĐ 88 (nước thải đô thị và KCN), NĐ 59 (2005), Bình Hưng Hóa (HCM, 2007), (Quản lý CTR), NDD117/2007/NĐ-CP 4 nhà máy ở Đà Nẵng (2006), Bãi Cháy 2010 (cấp nước đô thị và KCN) (2007) và Hà Khánh (Quảng Ninh, 2009), Bình Hưng (HCM, 2009), Bắc Thăng Long (Hà Nội, 2009),... 2009: QĐ 1930/TTg của Thủ tướng CP 2012 về Định hướng thoát nước đô thị và Dự kiến các dự án của Wb ở các thành KCN đến 2005, tầm nhìn đến 2050 phố trung bình, cấp thoát nước đô thị, các dự án VSMT các thành phố duyên hải, phát triển bền vững Đà Nẵng, các dự án của ADB, KfW, Finnida, Thụy Điển (Ghi chú: tỷ lệ xích trên trục thời gian trong hình chỉ mang tính tương đối) 1.2.3. Sơ đồ thoát nước phân tán và tại chỗ 20. Phương thức vệ sinh tại chỗ và vệ sinh phân tán đều đang được áp dụng ở Việt Nam. Ở đô thị, công trình vệ sinh tại chỗ áp dụng trong các khách sạn lớn mới xây, các bệnh viện và toà nhà văn phòng, xử lý nước thải đạt loại B trước khi xả vào mạng lưới thoát nước công cộng. Tuy nhiên, các công trình vệ sinh tại chỗ ở bệnh viện thường sớm hư hỏng. Trong khi đó, bể tự hoại vẫn là công trình vệ sinh tại chỗ được sử dụng phổ biến trong các toà nhà cũ, chung cư và các trung tâm thương mại nhỏ. 21. Số lượng hệ thống thu gom và xử lý nước thải phân tán quy mô nhỏ phục vụ cộng đồng dân cư nhỏ đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Một số hệ thống xử lý nước thải phân tán, áp dụng công nghệ 27 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam chi phí thấp như các hệ thống vệ sinh dựa vào cộng đồng ở thôn Lai Xá, xã Minh Khai, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Hệ thống này sử dụng bể tự hoại với các vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí BASTAF và bãi lọc ngập nước trồng cây dòng chảy ngang. Hệ thống xử lý nước thải cho một nhóm hộ gia đình (30 hộ) ở xã Kiêu Kỵ (Gia Lâm, Hà Nội), ở thị trấn Chợ Mới và Chợ Rã (Bắc Kạn) cũng áp dụng công nghệ tương tự. Khác hệ thống xử lý tập trung quy mô lớn, các bên tham gia đầu tư, quản lý hệ thống xử lý nước thải phân tán là các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng dân cư địa phương và chính quyền địa phương. Vận hành và bảo dưỡng bền vững là vấn đề chính của hệ thống xử lý nước thải phân tán, do những hạn chế trong kỹ năng bảo trì và quản lý hệ thống. 22. Phân bùn từ bể tự hoại hiện là vấn đề đáng quan ngại. Mặc dù bể tự hoại là công trình vệ sinh phổ biến nhất ở các đô thị, hiện chưa có đô thị nào ở Việt Nam xây dựng được một hệ thống quản lý phân bùn hiệu quả. 1.2.4. Xây dựng khung pháp lý về vệ sinh môi trường 23. Việt Nam đã cải thiện đáng kể khung chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường, phát triển hạ tầng đô thị và nông thôn và về quản lý VSMT/nước thải. Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên được ban hành năm 1995 và sửa đổi năm 2005. Phí bảo vệ môi trường áp dụng đối với nước thải đô thị và công nghiệp áp dụng từ 2003. Các Nghị định quan trọng về cấp nước, quản lý nước thải, quản lý chất thải rắn đô thị và khu công nghiệp được ban hành năm 2007. Chương trình mục tiêu Quốc gia Nước sạch và vệ sinh nông thôn giai đoạn III (NTP3) (2011 – 2015) chú trọng hoạt động cải thiện VSMT (xem Hình 1.4). Tiêu chuẩn xả thải cho nhiều loại nước thải khác nhau đã và đang được xây dựng. Tuy nhiên, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để xây dựng khung chính sách pháp luật về quản lý nước thải sát với thực tế và hiệu quả hơn. 1.3. Đánh giá hoạt động quản lý nước thải Hình 1.4 Hiện trạng quản lý nước thải đô thị tại Việt Nam Thoát nước trực tiếp (không qua Nước thải Tổng lượng bể tự hoại) thu gom nước thải 5% an toàn được xử lý 10% Bể tự hoại có thoát nước 55% Bùn thải Tổng lượng thu gom bùn thải xử lý Dân số đô thị Bể tự hoại không an toàn an toàn 25 triệu thoát nước 4% người 22% Nước thải, Công trình tại bùn thải không chỗ khác an toàn xả vào 18% môi trường Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2013 28 báo cáo chính 1.3.1. Khía cạnh kỹ thuật 24. Các vấn đề kỹ thuật chính trong lĩnh vực VSMT được trình bày trong nội dung này, và Hình 1.4 thể hiện các dòng thải chính ở đô thị Việt Nam. Mức độ xử lý nước thải và phân bùn bể tự hoại còn thấp, và nhiệm vụ trung tâm nhằm cải thiện lĩnh vực VSMT sẽ là tăng việc thu gom, xử lý nước thải và quản lý phân bùn bể tự hoại. VSMT đô thị ở Việt Nam xuất phát từ công trình vệ sinh tại chỗ trong mỗi hộ gia đình 25. Các công trình vệ sinh tại chỗ như bể tự hoại vẫn là công trình xử lý nước thải chính ở Việt Nam, ngay cả khi các hộ gia đình đã đấu nối vào hệ thống thoát nước công cộng, trừ trường hợp hệ thống thoát nước ở thành phố Buôn Ma Thuột, Đà Lạt và các khu vực đô thị mới, vì theo thiết kế, các hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng sẽ không có bể tự hoại. 26. Bể tự hoại, công trình xử lý nước thải sơ bộ phổ biến, cũng là một vấn đề lớn, do hầu hết các hộ gia đình quản lý bể tự hoại chưa tốt. Cần phải hút bùn thường xuyên, nhưng các hộ gia đình chỉ thực hiện hút khi bể bị tắc. Do vậy, nhiều bể tự hoại hoạt động trong tình trạng bị quá tải, không xử lý hay xử lý kém hiệu quả. Nước thải sau bể tự hoại xả vào hệ thống thoát nước chung vốn đã xuống cấp, có thể chứa các chất rắn và làm tắc nghẽn dòng chảy hoặc phát sinh mùi. Hệ thống thu gom nước thải ở các đô thị Việt Nam 27. Đa phần các hộ gia đình thực hiện đấu nối vào hệ thống thu gom nước thải để giải quyết nhu cầu thoát dòng nước thải phát sinh ra khỏi nhà. Tại hầu hết các thành phố lớn ở Việt Nam như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng và các đô thị cấp tỉnh khác, nền đất không thấm nước và các hộ gia đình không thể áp dụng các giải pháp thoát nước tại chỗ được. Do vậy, họ không có cách nào khác ngoài việc thoát nước ra chỗ khác, thường là vào đường cống trước nhà. Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước thường không được thiết kế và thực hiện đúng kỹ thuật. Việc các hộ gia đình tự đấu nối để thoát nước thải vào hệ thống cống công cộng xảy ra phổ biến ở Việt Nam, dẫn đến tình trạng ô nhiễm ở nhiều khu vực xung quanh nhà. Trong khi đó, tỷ lệ đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước công cộng ở các thị trấn nhỏ vùng sâu vùng xa, khu vực ven đô và trong các đô thị miền Trung lại rất thấp do nền đất chủ yếu là cát cho phép nước thấm nước tốt. Khảo sát của Ngân hàng Thế giới ở Đà Nẵng năm 2012 cho thấy nhiều khu vực có tỷ lệ đấu nối vào hệ thống thoát nước dưới 10%, hầu hết các bể tự hoại đều có giếng thấm để tiêu nước (Khảo sát của Ngân hàng Thế giới, 2012). Hiệu quả kỹ thuật của VSMT đô thị 28. Tỷ lệ sử dụng công trình vệ sinh cao nhưng chưa bảo vệ môi trường hiệu quả. Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn để cải thiện con số 10% lượng nước thải phát sinh ở các đô thị được xử lý. Hiện nay, nhà nước chưa ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng VSMT, đặc biệt là hệ thống thu gom và đấu nối hộ gia đình. Nguyên nhân chính là do chưa tiếp cận được vốn, cán bộ lãnh đạo thiếu kiến thức kỹ thuật để có thể lựa chọn công nghệ phù hợp và năng lực quản lý đô thị của chính quyền còn yếu. Hiệu quả hoạt động của các nhà máy xử lý nước thải đô thị tại Việt Nam. 29. Nước thải trong hệ thống thoát nước chung và riêng có đặc điểm khác nhau, xem so sánh trong Hình 1.5 và Bảng 1.1. Chỉ có 4 trong số 17 nhà máy xử lý nước thải tập trung tiếp nhận nước thải từ hệ thống thoát nước riêng, 13 nhà máy xử lý nước thải còn lại tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung. Nước thải đầu vào mà các nhà máy xử lý tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung có nồng độ BOD trung bình dao động từ 31-135mg/l, mức trung bình là 67,5mg/l9 trong khi nước thải đầu vào mà các nhà máy xử lý Giá trị thống kê trung bình năm của 13 nhà máy xử lý nước thải đã khảo sát. Không có thông tin về sự thay đổi trong 9 nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào theo mùa ở các nhà máy này. 29 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam tiếp nhận từ hệ thống thoát nước riêng (Buôn Ma Thuột và Đà Lạt) có nồng độ BOD trong khoảng 336-380 mg/l, trung bình là 358mg/l. Nồng độ các chất ô nhiễm khác cũng khác nhau giữa hai hệ thống thoát nước này (xem Hình 1.5). So sánh công suất vận hành thực tế với công suất thiết kế Hình 1.5 Công suất hoạt động thực tế và công suất thiết kế của 15 nhà máy xử lý nước thải đã khảo sát 200,000 150,000 Công suất, m 3/ngày 100,000 50,000 - 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Công suất thiết kế Công suất thực tế Trạm XLNT Chú thích: 1- Trạm Kim Liên; 2-Trạm Trúc Bạch; 3- Nhà máy Bắc Thăng Long Vân Trì; 4-Nhà máy Yên Sở; 5- Nhà máy Bình Hưng; 6- Nhà máy Bình Hưng Hòa; 8- Nhà máy Sơn Trà; 9- Nhà máy Hòa Cường; 10- Nhà máy Phú Lộc; 11- Nhà máy Ngũ Hành Sơn; 12- Nhà máy Bãi Cháy; 13- Nhà máy Hà Khánh; 14- Nhà máy Đà Lạt ; 15- Nhà máy Buôn Ma Thuột 30. Công suất hoạt động của các nhà máy xử lý nước thải đô thị dao động trong khoảng 18,4% đến 128% công suất thiết kế. Hình 1.5 so sánh công suất vận hành thực tế với công suất thiết kế của 15 nhà máy xử lý nước thải đã khảo sát (Xem Bảng 1.1). Một số nhà máy như Kim Liên, Trúc Bạch (Hà Nội), Bình Hưng (Thành phố Hồ Chí Minh), Sơn Trà (Đà Nẵng), Bãi Cháy (Quảng Ninh) có công suất hoạt động cao hơn công suất thiết kế trong khi các nhà máy còn lại đều hoạt động dưới công suất thiết kế. Nhà máy có công suất hoạt động thấp nhất là Bắc Thăng Long (Hà Nội) với công suất chỉ đạt 18,4% do nhà máy tiếp nhận nước thải từ khu công nghiệp gần đó chứ không phải từ khu dân sinh như dự kiến ban đầu. Đây là bằng chứng cho thấy hiệu quả đầu tư kém do không thi công đồng bộ công trình xử lý nước thải và mạng lưới thu gom cũng như chưa thực hiện chương trình khuyến khích thực hiện đấu nối hộ gia đình. Một nguyên nhân khác là trong giai đoạn chuẩn bị dự án đã tính lưu lượng nước thải đầu vào quá cao.. 31. Hầu hết các nhà máy xử lý nước thải đều xử lý đạt tiêu chuẩn, dù tiếp nhận nước thải từ hệ thống thoát nước chung hay riêng. Công suất hoạt động và nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào thấp hơn thiết kế giúp hầu hết các nhà máy xử lý nước thải tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung dễ dàng xử lý đạt tiêu chuẩn, cho dù áp dụng công nghệ xử lý nào. Nước thải sau xử lý của hai nhà máy tiếp nhận từ hệ thống thoát nước riêng (Buôn Ma Thuột và Đà Lạt) đạt tiêu chuẩn xả thải loại B theo QCVN 40:2011/BTNMT về nồng độ ô xy sinh hóa (BOD), ô xy hóa học (COD), tổng chất rắn lơ lửng (TSS), Tổng ni-tơ (TN), nhưng chưa đạt chuẩn về nồng độ A-mô-ni; riêng nhà máy Đà Lạt còn chưa xử lý đạt chuẩn thông số Phốt-pho. 32. Cần cân nhắc cẩn trọng các đặc điểm khác biệt của nước thải trong hai phương pháp thu gom khi lập kế hoạch dự án xử lý nước thải và lựa chọn công nghệ xử lý. Hệ thống thoát nước riêng có tỷ lệ đấu nối hộ 30 báo cáo chính gia đình trực tiếp vào cống thoát nước cao (không qua bể tự hoại), do vậy nước thải đầu vào có nồng độ chất ô nhiễm cao hơn nhiều so với nước thải chảy trong hệ thống thoát nước chung (xem Hình 1.6). Tuy nhiên, hiện nay khi thiết kế công trình xử lý và lựa chọn công nghệ chính quyền vẫn tính nồng độ chất ô nhiễm trong hai hệ thống này như nhau. Hình 1.6 So sánh nồng độ chất ô nhiễm của nước thải trong HTTN chung và riêng BOD COD 400 700 Đầu vào Đầu vào 350 600 Đầu ra Đầu ra 300 500 250 400 mg/L mg/L 200 QCVN40:2011/BTNMT, Cột B 300 150 QCVN40:2011/BTNMT, Cột B 200 100 50 100 0 0 Chung Riêng Chung Riêng (a) Nồng độ BOD trong hệ thống thoát nước chung (b) Nồng độ COD trong hệ thống (2 cột bên trái) và riêng (2 cột bên phải) thoát nước chung và riêng TSS NH4-N 900 900 Đầu vào Đầu vào 800 90 Đầu ra Đầu ra 700 80 70 600 60 500 50 mg/L mg/L 400 40 300 30 QCVN40:2011/BTNMT, 200 QCVN40:2011/BTNMT, Cột B 20 Cột B 100 10 0 0 Chung Riêng Chung Riêng (c) Nồng độ TSS trong hệ thống (d) Nồng độ NH4-N trong hệ thống thoát nước chung và riêng thoát nước chung và riêng T-N T-P 100 25 Đầu vào Đầu vào 90 Đầu ra Đầu ra 80 20 70 60 15 mg/L 50 mg/L QCVN40:2011/BTNMT, Cột B 40 10 QCVN40:2011/BTNMT, Cột B 30 20 5 10 0 0 Chung Riêng Chung Riêng (e) Nồng độ T-N trong hệ thống (f) Nồng độ T-P trong hệ thống thoát nước chung và riêng thoát nước chung và riêng Chú thích: Các cột biểu thị giá trị trung bình, cao nhất và thấp nhất của thông số ô nhiễm trung bình hàng năm của các nhà máy xử lý nước thải đã khảo sát. 31 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Bảng 1.1 Các chỉ số đánh giá hiệu quả xử lý của 15 nhà máy XLNT10 đô thị đang hoạt động ở Việt Nam11 Coli- Nhà Hệ BOD COD TSS NH4-N form máy xử Thành Quá trình thống T-N (mg/L) T-P (mg/L) Tiêu chuẩn áp STT (mg/L) (mg/L) (mg/L) (mgN/L) (MPN/ lý nước phố xử lý thoát 100mL) dụng thải nước Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Ra 1 Kim Liên A2O (AS) Chung 115 9 145 18 85 5 18 - 40 17 6.5 1.7 0 TCVN5945-2005, B 2 Trúc Bạch A2O (AS) Chung 135 8 155 15 85 5 - - 34 16 6.5 1 0 TCVN5945-2005, B Bắc Thăng Hà Nội 3 A2O (AS) Chung 85 12 135 16 65 8 - - 38 12 5.4 0.85 100 QCVN40-2011, A Long Bể SH 4 Yên Sở Chung 45 6 132 24 51 10 28 0.5 34 8 7.2 6.5 - QCVN40-2011, B theo mẻ Bình Hồ sinh 5 Chung 42 3 135 30 103 7 - - 11 7 175 QCVN14-2008, B Hưng Tp. Hồ học Bình Chí BHT 6 Hưng Minh truyền Chung 78 10 203 50 49 18 17.9 3.3 - - - QCVN14-2008, B Hòa thống Hồ yếm 7 Sơn Trà Chung 37 25 67 49 38 19 - - 18 14 1.7 1.4 - khí Hòa Hồ yếm 8 Chung 63 31 115 60 59 23 - - 23.6 18.6 1.9 1.5 - Cường Đà khí Nẵng Hồ yếm 9 Phú Lộc Chung 96 37 169 73 71 23 - - 28.3 21.4 2.2 1.8 - QCVN40-2011, B khí Ngũ Hành Hồ yếm 10 Chung 31 22 60 44 27 16 - - 15.6 12.9 1.4 1.1 - Sơn khí Bể SH 11 Bãi Cháy Chung 36 20 80 32 196 11 1.3 0.79 - - - - 13 Quảng theo mẻ Ninh Bể SH 12 Hà Khánh Chung 45 23 68 68 41 35 1.1 1 - - - - 43 theo mẻ Bể lắng hai vỏ + 13 Đà Lạt Đà Lạt Riêng 380 14 604 65 792 82 68 25.6 95 30 19.7 9 - QCVN24-2009, B Lọc nhỏ giọt Buôn Ma Hồ sinh 14 BMT Riêng 336 45 564 98 286 76 36.4 32 93.7 23 11.2 4.3 15000 QCVN24-2009, B Thuột học Bắc Kênh oxy 15 Bắc Giang Chung 90 - 120 25 - - - - - - - - - QCVN14-2008, B Giang hóa QCVN40:2011/BTNMT, cột A 30 75 50 5 20 4 3000 CVN40:2011/BTNMT, cột B 50 150 100 10 40 6 5000 10 Tại thời điểm khảo sát, không có thông tin về hai nhà máy XLNT Cảnh Đồi và Nam Viên tại KĐT mới Phú Mỹ Hưng . 11 Cập nhật thông tin mới: Tính đến thời điểm hiện nay, đã có thêm một số nhà máy XLNT mới đi vào hoạt động như nhà máy XLNT Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận (công suất thiết kế 5.000m3/ngày, bắt đầu hoạt động năm 2012), nhà máy XLNT thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (Công suất thiết kế 25.000m3/ngày, bắt đầu hoạt động năm 2012), nhà máy XLNT Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (công suất thiết kế 17.500m3/ngày, bắt đầu hoạt động năm 2013), nhà máy XLNT Nam Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (Công suất thiết kế 17.650m3/ngày, bắt đầu hoạt động năm 2013), nhà máy XLNT Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (Công suất thiết kế 13.000m3/ngày, bắt đầu hoạt động năm 2013). 32 báo cáo chính So sánh các công nghệ xử lý nước thải 33. Các công nghệ xử lý nước thải sử dụng trong 17 nhà máy xử lý nước thải rất khác nhau. 8 trong số 13 nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung áp dụng công nghệ bùn hoạt tính, sử dụng phương pháp bùn hoạt tính truyền thống (CAS), Kỵ khí – Thiếu khí – Hiếu khí (A2O), bể phản ứng sinh học hoạt động theo mẻ (SBR) hay mương oxi hóa (OD). Các phương pháp này đảm bảo xử lý nước thải đạt chất lượng cao và thường được thiết kế để xử lý nước thải đầu vào có nồng độ BOD cao hơn nhiều so với nồng độ thực tế nhà máy đang tiếp nhận. Vì vậy, 8 nhà máy xử lý nước thải có khả năng xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn thải hiện hành. Nồng độ BOD trung bình trong nước thải sau xử lý của 8 nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung dao động từ 3-23 mg/l, thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn 50mg/l cho loại “B”. Với nồng độ chất ô nhiễm thấp như vậy, thực ra có thể xử lý đạt tiêu chuẩn nước thải đầu ra bằng cách phân kỳ xây dựng nhà máy xử lý hoặc lựa chọn công nghệ xử lý thấp hơn, nhờ đó có thể tiết kiệm chi phí đầu tư cơ bản. 34. Hai nhà máy xử lý nước thải ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước riêng có nồng độ chất ô nhiễm cao hơn và áp dụng công nghệ xử lý ít phức tạp hơn. Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt sử dụng công trình xử lý bậc một/bậc hai là bể lắng hai vỏ đi kèm với hệ thống lọc sinh học nhỏ giọt, trong khi nhà máy xử lý nước thải Buôn Ma Thuột sử dụng hệ thống chuỗi hồ sinh học, bao gồm hồ kỵ khí, hồ tùy tiện, và hồ hoàn thiện. Mặc dù các nhà máy xử lý nước thải này đều đáp ứng được các tiêu chuẩn thải về nồng độ BOD, COD, tổng chất rắn lơ lửng, tổng ni-tơ, nhưng hiệu quả xử lý A-mô-ni của các nhà máy này còn hạn chế, như đề cập trong Bảng 1.2. 35. Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt là trường hợp đặc biệt vì nhà máy này tiếp nhận nước thải đầu vào có nồng độ A-mô-ni trung bình là 67 mg/l, so với mức A-mô-ni trong nước thải đầu vào ở Buôn Mê Thuột là 36 mg/l. Nồng độ A-mô-ni trong nước thải đầu vào của nhà máy Đà Lạt cao, có thể do nguyên nhân nhà máy này tiếp nhận trực tiếp nước thải chưa qua xử lý từ các lò mổ xả vào hệ thống thoát nước riêng cũng như ba xe bùn mỗi ngày từ các đơn vị thông hút bể tự hoại. Tuy nhiên, hệ thống xử lý bằng bể lắng hai vỏ (Imhoff) và bể lọc sinh học nhỏ giọt ở Đà Lạt nhìn chung không thể xử lý để đạt yêu cầu xả thải theo A-mô- ni do nồng độ A-mô-ni trong nước thải đầu vào rất cao. Tương tự, nhà máy xử lý nước thải Buôn Ma Thuột tiếp nhận nước thải đầu vào từ hệ thống thoát nước riêng có nồng độ A-mô-ni cao, hệ thống hồ sinh học không đảm bảo đạt hiệu quả quá trình nitrat hóa để loại bỏ A-mô-ni theo yêu cầu. Nhà máy Đà Lạt có thể khắc phục hạn chế của mình bằng cách quy định bắt buộc các đơn vị thoát nước xử lý sơ bộ trước khi xả vào cống. Chính quyền cần nâng cấp nhà máy Buôn Ma Thuột để có thể xử lý đạt tiêu chuẩn xả thải về nồng độ A-mô-ni, mặc dù nước thải sau xử lý có thể không cần phải đạt tiêu chuẩn cao như hiện nay do được sử dụng để tưới cà phê. 36. Trong giai đoạn thiết kế và nghiên cứu khả thi dự án VSMT, sự khác nhau về điều kiện kinh tế-xã hội, địa hình giữa các địa phương thường không được xem xét thỏa đáng trong khi các yếu tố này có ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do các địa phương chưa lập quy hoạch VSMT toàn diện phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị. Một ví dụ tiêu biểu là việc lựa chọn sử dụng hệ thống thoát nước chung hay riêng ở Việt Nam. Kết quả lựa chọn này sẽ tác động đến toàn bộ các yếu tố khác trong quá trình triển khai dự án. Trong giai đoạn lập kế hoạch dự án thường chưa lựa chọn được công nghệ xử lý phù hợp do địa phương không dành đủ đất để áp dụng các giải pháp công nghệ thấp hoặc do địa phương nghiêng về lựa chọn áp dụng các giải pháp thông dụng hoặc đơn giản là làm theo những gì mà các thành phố khác đã làm. Hơn nữa, hệ thống thu gom và xử lý nước thải chưa hoàn hiện cũng không giúp cải thiện hiệu quả môi trường. Điều này thể hiện rõ ở các nhà máy Bắc Giang, Bãi Cháy, Hà Khánh và một số nhà máy mới xây dựng, toàn bộ các nhà máy đều áp dụng công nghệ bùn hoạt tính để xử 33 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam lý nước thải đầu vào có nồng độ chất ô nhiễm rất thấp do tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung chưa xây dựng hoàn thiện. Nhà máy Bắc Thăng Long đã vận hành vài năm nhưng khu vực này thậm chí chưa phát triển đô thị và chưa xây dựng mạng lưới thu gom nước thải. Ở Đà Nẵng, bốn nhà máy xử lý nước thải ban đầu là các hồ kỵ khí lộ thiên, giải pháp này không phù hợp vì các nhà máy này nằm trong khu dân cư với khoảng cách cách ly an toàn rất hạn chế. Sau này, các nhà máy xử lý nước thải ở Đà Nẵng phải phủ bạt kín trước phản ứng của cộng đồng về tình trạng ô nhiễm mùi, biện pháp này giờ đây lại gây khó khăn cho hoạt động của các công trình, khó tiếp cận cửa bảo dưỡng và thông hút bùn. 37. Trong quá trình triển khai các dự án VSMT đô thị thường bỏ qua hợp phần đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước. Đấu nối hộ gia đình, ngay cả trong hệ thống thoát nước chung, cũng giúp tăng nồng độ chất hữu cơ trong nước thải đầu vào. Tuy nhiên, ở Đà Nẵng thì ngược lại, nền đất cát thấm nước tốt cho phép các hộ gia đình cho nước thấm tại chỗ sau khi xử lý trong bể tự hoại. Do vậy, nồng độ chất hữu cơ đo được trong nước thải đầu vào của các nhà máy xử lý ở Đà Nẵng khá thấp, do còn ít chất hữu cơ chảy vào hệ thống thu gom. Xử lý bùn của hệ thống thoát nước 38. Hiện nay cách xử lý bùn phát sinh từ mạng lưới thoát nước và trạm XLNT phổ biến nhất là chôn lấp. Hệ thống thoát nước chung chứa bùn với thành phần phức tạp và hàm lượng chất vô cơ cao, không phù hợp để thu hồi các chất có ích. Nhiều thành phố đang gặp khó khăn trong việc bố trí diện tích chôn lấp bùn thải nhà máy xử lý nước thải. Một nhà máy ở Đà Lạt đang thử sản xuất phân vi sinh sau khi làm khô và ổn định bùn trong các sân phơi bùn, trong khi nhu cầu sử dụng phân vi sinh của các trang trại trồng hoa và rau màu trong thành phố khá lớn. Nhà máy Bình Hưng ở thành phố Hồ Chí Minh cũng sản xuất phân vi sinh sau khi làm khô bùn cơ học. Tuy nhiên thị trường tiêu thụ phân vi sinh trong trường hợp này lại thiếu, và nhà máy hiện đang phải đối mặt với tình trạng các công trình xử lý phát sinh mùi hôi nghiêm trọng. 39. Thu hồi tài nguyên từ bùn chưa phải là vấn đề quan tâm của các dự án thoát nước và xử lý nước thải. Đây là nội dung sẽ được xem xét trong những năm tới khi các mô hình quản lý, nhu cầu thị trường, các tiêu chuẩn và các biện pháp kiểm soát được phát triển đồng bộ với các công nghệ xử lý phù hợp. Hiện nay mới chỉ có nhà máy Yên Sở với công suất 200.000 m3/ngày được thiết kế áp dụng công nghệ phân hủy kỵ khí để ổn định bùn. Khí biogas sẽ được thu hồi và đốt. Tuy nhiên, cho tới nay nhà máy chưa tạo ra bùn và khí biogas do chưa vận hành hết công suất và do nước thải đầu vào có nồng độ chất ô nhiễm thấp, do đó không đủ lượng carbon cần thiết. Quản lý phân bùn 40. Hiện nay chưa thành phố nào ở Việt Nam xây dựng được chiến lược quản lý phân bùn và đưa ra công nghệ xử lý rõ ràng. Cách xử lý phân bùn phổ biến nhất của các đơn vị thông hút tư nhân và nhà nước là chôn trong bãi chôn lấp. Nhiều đơn vị tư nhân vẫn đổ trộm bùn thải nhà vệ sinh vào các đường cống, ống thoát nước, hồ chứa hoặc bãi đất trống. Ở một vài thành phố đã xây dựng nhà máy xử lý nước thải như Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, chất thải nhà vệ sinh được vận chuyển tới bể tiếp nhận nước thải đầu vào của nhà máy và được phối hợp xử lý cùng với nước thải. Phương án này không ảnh hưởng tới hoạt động của nhà máy về thủy lực và nồng độ chất hữu cơ. Tuy nhiên, nồng độ A-mô-ni cao (500-1000 mg/l) và tỷ lệ mầm bệnh ký sinh trùng cao trong chất thải nhà vệ sinh có thể gây mất cân bằng tỷ lệ C:N trong quá trình xử lý sinh học cũng như khiến chất lượng nước thải đầu ra không an toàn. Các nhà máy xử lý nước thải khác lựa chọn phối trộn bùn thải bể tự hoại với bùn cống thoát nước trên sân phơi sau khi khử trùng bằng vôi (nhà máy Bãi Cháy, Hạ Long). Tuy nhiên, trên thực tế, theo quan sát của Đoàn đánh giá khi đến khảo sát, các nhà máy trước đây có phun vôi bột nhưng hiện nay không thực hiện hoạt động này nữa. Hoạt động 34 báo cáo chính quản lý phân bùn không hiệu quả khiến bùn Hình 1.7 Sân phơi bùn ở Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt thải nhà vệ sinh chưa được xử lý hợp vệ sinh. 41.Biết rằng phân bùn có giá trị hữu cơ và dưỡng chất cao, một vài đơn vị thông hút bể tự hoại đã cung cấp phân bùn cho nông dân để sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Một vài doanh nghiệp tư nhân đã phối trộn phân bùn với phế thải nông nghiệp hay rác hữu cơ để tạo ra phân bón hữu cơ. Tuy vậy, Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược kiểm soát hoạt động sản xuất và tái sử dụng an toàn các sản phẩm phân vi sinh có nguồn gốc từ chất thải nhà vệ sinh, ngoại trừ Quyết định số 04/2007/-QĐ của Bộ NN&PTNT cấm sử dụng phân bón làm Ảnh: Nguyễn V. A., 2012 từ rác thải sinh hoạt, công nghiệp và phân chuồng tươi để bón cho rau an toàn. 1.3.2. Chính sách 42. Việt Nam đã xây dựng khung chính sách pháp luật tương đối toàn diện về VSMT, bao gồm cả quản lý nước thải đô thị, từ luật, chiến lược quốc gia, nghị định, thông tư đến quyết định, chương trình và kế hoạch. Tuy nhiên, các văn bản này còn chưa thống nhất, chồng chéo và có một số nội dung còn bỏ ngỏ. Các mục tiêu bảo vệ môi trường và thu gom, xử lý nước thải nhiều khi còn quá tham vọng và chưa thống nhất với nhau trong các văn bản pháp luật hiện hành. 43. Các quy định pháp luật về vệ sinh đô thị còn chưa hoàn thiện. Mặc dù bể tự hoại là công trình vệ sinh hộ gia đình được sử dụng phổ biến ở hầu hết các khu vực đô thị, chưa thành phố nào ở Việt Nam ban hành quy định về thiết kế, xây dựng và quản lý bể tự hoại. Hơn nữa, Nhà nước cũng chưa quy định về hoạt động vận hành và bảo trì bể tự hoại cũng như quản lý phân bùn. Nhiều địa phương chưa quy định bắt buộc hộ gia đình phải đấu nối vào hệ thống thoát nước. Một số thành phố đang thực hiện các dự án ODA đã lồng ghép các vấn đề này trong quá trình thiết kế và thực hiện dự án. 44. Mặc dù có chủ trương khuyến khích khối tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, chính phủ Việt Nam chưa ban hành nhiều biện pháp ưu đãi để khuyến khích đầu tư tư nhân vào hoạt động quản lý nước thải. Thông tư số 230/2009/TT-BTC của Bộ Tài Chính ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/2009/NĐ-CP và Nghị định 59/2007/NĐ-CP để xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ sự tham gia khu vực tư nhân vào lĩnh vực nước thải. Việc không thu hồi được chi phí, quy trình thủ tục hành chính rườm rà và hiệu quả thực hiện các quy định về dịch vụ và biểu phí là các nguyên nhân chính hạn chế sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực VSMT đô thị. 45. Việt Nam đang thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhưng quá trình cổ phần hóa công ty cấp nước và công ty thoát nước còn chậm. Dự kiến dự án nước thải mới ở Đà Nẵng sẽ áp dụng hợp đồng Xây dựng – Vận hành (trong 10 năm). Yên Sở là nhà máy xử lý nước thải đầu tiên được thực hiện theo hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (BT) tại Hà Nội, theo đó, công ty Gamuda của Malaysia đã đầu tư 300 triệu Đô la Mỹ để thi công nhà máy xử lý nước thải Yên Sở và bàn giao nhà máy này cho Công ty thoát 35 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam nước Hà Nội (HSDC) quản lý. Đổi lại, Công ty Gamuda được nhận 150 ha đất từ Thành phố Hà Nội để thực hiện dự án lớn về phát triển đô thị, trị giá 1 tỷ Đô la Mỹ. Lập quy hoạch thoát nước 46. Nhiều địa phương phê duyệt và triển khai dự án thoát nước và xử lý nước thải đô thị mặc dù các dự án này không có trong quy hoạch thoát nước, hoặc quy hoạch chưa được lập. Nghị định 88 và bản đang sửa đổi của Nghị định này quy định chính quyền đô thị phải lập quy hoạch thoát nước. Tuy nhiên quy hoạch thoát nước hay quy hoạch VSMT thường chưa được lồng ghép vào quy hoạch phát triển đô thị. Hiện Việt Nam vẫn chưa ban hành văn bản quy định và tài liệu hướng dẫn hoạt động lập kế hoạch, tham vấn và thẩm định dự án phát triển VSMT đô thị, dẫn đến tình trạng không xây dựng các nhà máy xử lý nước thải một cách hệ thống trên địa bàn thành phố để xử lý các vấn đề môi trường và phát triển đô thị. 47. Công ty thoát nước và xử lý nước thải thường không tham gia vào giai đoạn thiết kế và thi công, cũng không được sở hữu công trình. Nhà đầu tư (chính quyền trung ương hoặc địa phương) thực hiện thiết kế và thi công trước khi bàn giao công trình cho công ty thoát nước và xử lý nước thải vận hành và bảo trì. Do đó, các công ty này gặp nhiều khó khăn khi vận hành và bảo dưỡng các đường ống và công trình xử lý, đặc biệt là khi công trình thi công không đạt yêu cầu. Công ty thoát nước và xử lý nước thải không được sở hữu công trình, trang thiết bị (Nghị định 88/NĐ-CP quy định tài sản này thuộc quyền sở hữu của chính quyền thành phố) và cũng không có quyền từ chối nhận bàn giao công trình nếu công trình không đạt yêu cầu. 48. Trong quá trình khảo sát, Đoàn đánh giá cũng phát hiện rằng một số công trình xử lý nước thải phân tán như các công trình trong khách sạn, bệnh viện và các khu chung cư mới xả nước thải đã qua xử lý vào mạng lưới thoát nước công cộng mặc dù đã xử lý đạt tiêu chuẩn xả thải. Công tác lập kế hoạch phát triển VSMT chưa hiệu quả, dẫn đến tình trạng phát triển chồng chéo các hệ thống thoát nước tập trung và phân tán. Phí nước thải (Nghị định 88) và Phí bảo vệ môi trường (Nghị định 67)12 49. Trách nhiệm xây dựng biểu phí và thu phí nước thải giữa Sở TN&MT và các công ty cung cấp nước còn chưa rõ ràng và chồng chéo. Trong nhiều trường hợp, các công ty cấp nước thực hiện thu phí nước thải. Do vậy, có thể thấy phí bảo vệ môi trường mà SởTN&MT thu bị chồng chéo với phí nước thải do các công ty cấp nước thu. Tương tự, Ban quản lý Khu công nghiệp và đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh trong Khu công nghiệp cũng lúng túng khi thu phí nước thải. Phí nước thải và phí bảo vệ môi trường đang được điều chỉnh theo các sửa đổi của Nghị định 88 và 67. 50. Nghị định 88 ban hành năm 2007 là cột mốc quan trọng đối với hoạt động quản lý nước thải đô thị và khu công nghiệp do nó khắc phục nhiều vấn đề cản trở sự phát triển hiệu quả của lĩnh vực này. Nghị Trong quá trình viết báo cáo này, Nghị định 67/2003-NĐ-CP đã được thay thế bởi Nghị định 25/2013/NĐ-CP ban hành 12 vào tháng 03/2013. Ngoài ra, vào tháng 05/2013, Thông tư số 63/2013-TTLT cũng được ban hành hướng dẫn thực hiện Nghị định 25. Nghị định 25 tách phí bảo vệ môi trường và phí thoát nước. Nhà nước sẽ thu phí bảo vệ môi trường từ các đơn vị sản xuất và hộ gia đình xả nước thải ra môi trường. Đối với nước thải sinh hoạt, đơn vị thoát nước và hộ gia đình chưa đấu nối vào hệ thống cống phải trả phí bảo vệ môi trường với mức không quá 10% giá nước sạch quy định ở địa phương. Do tỷ lệ 10% giá nước sạch là quá thấp, không đủ để thu hồi chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, quy định này không khuyến khích các đơn vị thoát nước thực hiện đấu nối vào mạng lưới thoát nước. Nghị định 88 (sửa đổi) dự kiến sẽ đổi tên “Phí thoát nước” thành “Giá dịch vụ thu gom và xử lý nước thải” và quy định thu từ các đối tượng sử dụng dịch vụ. Ngoài ra, hiện chính quyền còn lúng túng khi thực hiện quy định thu phí bảo vệ môi trường và phí thoát nước từ các đối tượng thoát nước thải vào mạng lưới thu gom nước chung (bao gồm sông và kênh hở) tại khu vực chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung. Nghị định 88 (sửa đổi) hiện trong giai đoạn soạn thảo cần khắc phục nội dung này. 36 báo cáo chính định 88 hiện đang được sửa đổi để quy định toàn diện hơn. Một số vấn đề sẽ được giải quyết như xây dựng các tiêu chuẩn xả thải vào hệ thống thoát nước đô thị; quy định về các văn bản do chính quyền địa phương ban hành về công tác thoát nước và xử lý nước thải đô thị; xây dựng chính sách huy động đầu tư phát triển vệ sinh đô thị; làm rõ quyền sở hữu các hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đô thị; và xác định phương pháp xây dựng biểu phí nước thải áp dụng cho các đơn vị thoát nước đô thị và công nghiệp nhằm từng bước thu hồi chi phí vận hành – bảo dưỡng. Hình 1.8 Một Hội thảo bàn về sửa đổi Nghị định 88 do Bộ Xây dựng tổ chức Ảnh: Xuân Thụ, 2013 Tiêu chuẩn thải 51. Các bên chưa thực sự quan tâm đến mục đích sử dụng của nguồn tiếp nhận khi thiết kế công trình xử lý nước thải để đạt tiêu chuẩn môi trường. Việt Nam nên phân chia các loại nước thải sau xử lý thành nhiều nhóm theo mục đích sử dụng, từ đó áp dụng các tiêu chuẩn môi trường khác nhau. Tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất là QCVN 24-2009, được thay thế bởi QCVN 40:2011 ban hành cuối tháng 12/2011. Một vài tỉnh đang áp dụng tiêu chuẩn QCVN 14:2008, vốn không áp dụng cho các nhà máy xử lý nước thải tập trung (Bắc Giang, Bình Hưng, và Bình Hưng Hòa). Một vài tỉnh áp dụng tiêu chuẩn xả thải đã hết hiệu lực như TCVN 6772, TCVN 7222, mặc dù các tiêu chuẩn này đã được thay thế. Bảng 1.2 trình bày quá trình phát triển các tiêu chuẩn xả thải từ năm 1995 đến nay. 37 Bảng 1.2 Những thay đổi về các tiêu chuẩn xả nước thải sinh hoạt và công nghiệp 38 TCVN TCVN QCVN QCVN QCVN TCVN 6772-2000 TCVN 7222: 2002 5945:1995 5945:2005 14:2008 24:2009 40:2011 Thông số Đơn vị Xử lý Xử lý Xử lý A B I II III IV A B A B A B A B cấp một cấp hai cấp ba pH - 6-9 5.5-9 5-9 5-9 5-9 5-9 6-9 6-9 6-9 6-9 5,5-9 5-9 5-9 6-9 5,5-9 6-9 5,5-9 BOD mg/L 20 50 30 30 40 50 100-200 10-30 5-10 30 50 30 50 30 50 30 50 COD mg/L 50 100 - - - - - - - 50 80 - - 50 100 75 150 TSS mg/L 50 100 50 50 60 100 100-150 10-30 5-10 50 100 50 100 50 100 50 100 NH4-N mgN/L 0.1 1 - - - - - - - 5 10 5 10 5 10 5 10 T-N mg/L 30 60 - - - - 20-40 15-30 3-5 15 30 30 50 15 30 20 40 T-P mgP/L 4 6 6 6 10 10 7-15 5-12 1-2 4 6 6 10 4 6 4 6 O&G mg/L 5 10 20 20 20 20 - - - 10 20 10 20 10 20 - - MPN/ Coliform 5000 10000 1000 1000 5000 5000 - - - 3000 5000 3000 5000 3000 5000 3000 5000 100ml Ghi chú: Các tiêu chuẩn này áp dụng đối với nước thải từ nhà máy xử lý nước thải xả vào: - A: nguồn nước sử dụng vào mục đích cấp nước. - B: nguồn nước sử dụng cho mục đích khác có yêu cầu chất lượng thấp - C: nguồn nước sử dụng cho các mục đích xác định được cơ quan chức năng cho phép (như hồ chứa nước thải, cửa lấy nước thải trong các đường cống dẫn vào nhà máy xử lý nước thải, v.v.) - Mức I-IV (TCVN 6772-200): dựa vào khối lượng nước thải phát sinh. đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam báo cáo chính 1.3.3. Thể chế 52. Hình dưới đây trình bày tóm tắt trách nhiệm quản lý nhà nước về thoát nước và xử lý nước thải đô thị của các bộ, ngành có liên quan ở Việt Nam (Hình 1.9). Mặc dù phương pháp “quản lý tổng hợp tài nguyên nước”, và “quản lý theo lưu vực sông” đã được quy định trong các văn bản pháp luật như Luật Tài nguyên Nước (1998, sửa đổi 2012), Luật Bảo vệ môi trường (2005), và Uỷ ban quản lý lưu vực sông cũng đã được thành lập ở ba lưu vực sông chính ở Việt Nam, cơ cấu thể chế hiện nay ở Việt Nam chưa hỗ trợ thực hiện các cách tiếp cận này. Hình 1.9 Sơ đồ quản lý nhà nước về thoát nước và xử lý nước thải đô thị Việt Nam Bộ K H&ĐT, Công ty Bộ XD, Bộ XD, UBND tỉnh, Bộ XD, Bộ TC, thoát nước, Bộ TN&MT Bộ TN&MT thành phố Bộ TN&MT Bộ TN&MT VMST Phân bổ Quản lý, Giám sát Xây dựng Chương trình, ngân sách Đầu tư vận hành (dịch vụ, chính sách Kế hoạch, và quản lý cơ bản và bảo dưỡng tiêu chuẩn pháp luật Dự án ngân sách hệ thống môi trường) Sở XD, Sở KH&ĐT, Nhà Các công ty, Các đơn vị Sở TC, tổ chức có liên quan Sở TN&MT Sở TN&MT đầu tư Nguồn: Grontmij – WSP, 2012 Mô hình quản lý nước thải đô thị 52. Hiện nay Việt Nam có hai mô hình công ty quản lý nước thải đô thị: (a) công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên và (b) công ty cổ phần. Đối với công ty cổ phần, nhà nước nắm giữ 51% cổ phần, số cổ phần còn lại do người lao động trong công ty và các cổ đông bên ngoài nắm giữ. Hầu hết các công ty này đều hoạt động theo cơ chế “chính quyền thành phố đặt hàng” và được ngân sách của thành phố thanh toán trực tiếp. Cơ chế sử dụng ngân sách đã được lập và Hình 1.10 Nạo vét mương thoát nước phê duyệt trước để trang trải các hoạt động trong năm khiến các công ty này không thể đầu tư nghiên cứu - phát triển hay tối ưu hoá hệ thống xử lý nước thải. Các công ty này thường gặp khó khăn khi xin ngân sách cho sửa chữa lớn, vì các khoản chi tiêu ngoài kế hoạch này thường phải được một cơ quan hành chính khác của thành phố phê duyệt. Thông thường phải mất khá nhiều thời gian mới được phê duyệt, tình trạng này có thể khiến công ty không cung cấp được dịch vụ. 54. Doanh nghiệp mạnh, có năng lực phù hợp thường xuất hiện ở các địa phương mà chỉ có một đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ công ích thoát nước và xử Nguồn: Tạp chí Cấp Thoát nước, lý nước thải, cấp nước, quản lý chất thải rắn, quản lý cây Hội CTN Việt Nam, 2013 xanh, đường và vỉa hè. Ở một số thành phố, công tác quản 39 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam lý hệ thống thoát nước đô thị được giao cho hai tổ chức hoặc nhiều hơn đảm nhiệm. Ví dụ ở Bắc Giang, mạng lưới thoát nước do Công ty cổ phần quản lý công trình đô thị Bắc Giang vận hành và bảo dưỡng, trong khi các kênh thoát nước chính, đường cống chính, trạm bơm và nhà máy xử lý nước thải lại do Trung tâm Bơm thoát nước chống ngập Bắc Giang vận hành. Ở Đà Lạt, mạng lưới thoát nước mưa do Công ty Công trình đô thị quản lý, trong khi mạng lưới thoát nước thải (thoát nước riêng) và nhà máy xử lý nước thải lại do Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng vận hành. Trách nhiệm quản lý bị chia nhỏ khiến cho các công ty khó phối hợp và giảm hiệu quả của các nguồn đầu tư. Phân công quản lý rời rạc cũng là vấn đề vướng mắc của hầu hết các thành phố. Ở đây cộng đồng và chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về đấu nối hộ gia đình và mạng lưới thu gom nước thải cấp ba, trong khi công ty thoát nước đô thị chịu trách nhiệm quản lý đường cống chính và nhà máy xử lý nước thải. Ngoài ra, do không có sự tiếp xúc và tương tác giữa người mua và người bán dịch vụ do thiếu sự đồng bộ trong quản lý, người dân không thể phản ảnh về các vấn đề cũng như sự không hài lòng với chất lượng dịch vụ, và sẽ không sẵn sàng trả phí cho dịch vụ này. 55. Cần xây dựng khung pháp luật toàn diện, hiệu quả và xây dựng năng lực thể chế để đảm bảo đầu tư bền vững. Các ban ngành cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo hiệu quả thực hiện chương trình. Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải thông qua đối thoại chính sách giữa các bên liên quan và Nhóm điều phối hoạt động VSMT của các tổ chức tài trợ (thành lập năm 2012 do ADB Việt Nam chủ trì). Cần tiếp tục thực hiện các hoạt động trên và mở rộng hoạt động khi có thể. Cam kết quản lý tốt của chính quyền địa phương 56. Ý thức “tham gia tích cực” có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả hoạt động lâu dài và bền vững của các hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. Trong quá trình khảo sát tại các nhà máy xử lý nước thải đô thị ở Việt Nam, Đoàn công tác nhận thấy các cán bộ vận hành có mối quan tâm, năng lực và động lực khác nhau trong quá trình vận hành các trang thiết bị. Điều này thể hiện rõ nhất khi xem xét tình trạng của các trang thiết bị này, vì khi các trang thiết bị được vận hành tốt thì sẽ sạch sẽ, các biện pháp kiểm soát mùi được thực hiện nghiêm ngặt và cán bộ nỗ lực để đạt các tiêu chuẩn xả thải. Những trang thiết bị như vậy thường do các nhân viên tận tâm vận hành, và do đó trang thiết bị được quản lý tốt, vận hành và bảo dưỡng thường xuyên. Đặc điểm “tham gia tích cực” với chất lượng tốt này có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hoạt động lâu dài và bền vững của các nhà máy xử lý nước thải.Cam kết của chính quyền địa phương cũng thể hiện ở niềm vinh dự của các nhân viên khi được giao thực hiện công việc này. Điều này thường thấy trong các đơn vị có vai trò chủ động trong quá trình triển khai dự án. Dự án VSMT Đà Lạt và Buôn Ma Thuột là ví dụ về ý thức tích cực này. Trong các dự án này, ban quản lý dự án liên lạc chặt chẽ với đơn vị được chỉ định vận hành công trình, sớm thiết lập ý thức về sự liên quan và lợi ích giữa các bên trong công việc. Những liên hệ như vậy giúp các đơn vị vận hành tham gia sớm vào chương trình đào tạo tổng hợp, tạo điều kiện thời gian để chuyển giao công nghệ cho đơn vị này. 57. Tham gia sớm trong giai đoạn phát triển hệ thống thoát nước sẽ khiến cán bộ có tinh thần trách nhiệm hơn. Nhìn chung, nếu công tác quản lý hệ thống thoát nước và xử lý nước thải được giao cho bên thứ ba vốn trước đó không tham gia dự án, ta có thể thấy trước hiệu quả quản lý sẽ kém do các đơn vị này không sẵn sàng đảm nhiệm quản lý lâu bền. Tình trạng này sẽ còn xảy ra nếu các đơn vị sau này chịu trách nhiệm vận hành thiết bị lâu dài không tham gia trong quá trình thực hiện dự án. Hiện vẫn chưa rõ có thể thay đổi được tình trạng này không, vì chính quyền tỉnh khi nhận tài trợ cho các dự án cấp tỉnh thường chỉ định cán bộ của mình vào Ban quản lý dự án, thay vì chỉ định cán bộ từ Công ty Thoát nước hay những đơn vị liên quan khác, mặc dù những đơn vị này sau này sẽ vận hành các công trình thoát nước. 40 báo cáo chính Vai trò và trách nhiệm của các công ty cung cấp dịch vụ công ích đô thị 58. Cơ quan được phân công quản lý các hoạt động của Công ty Thoát nước thường là Sở Xây dựng hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường. Cơ quan chuyên môn ví dụ như Ban chỉ đạo phòng chống ngập của thành phố Hồ Chí Minh cũng kết hợp các biện pháp kiểm soát phòng chống ngập ngắn và dài hạn với các hoạt động thoát nước. Mô hình quản lý ở Đà Nẵng trong đó Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý cả hoạt động bảo vệ môi trường và thoát nước đô thị tỏ ra hiệu quả; mô hình này phân bổ hiệu quả vốn đầu tư cơ bản và vốn cho hoạt động vận hành – bảo dưỡng hạ tầng đô thị cũng như các công trình bảo vệ môi trường khi thực hiện các văn bản pháp luật khác nhau như Nghị định 67 (đã được thay thế bởi Nghị định 25/2013) và Nghị định 88. 59. Chính sách cổ phần hóa các đơn vị công ích chưa giúp các công ty này độc lập về tài chính cũng như chưa cải thiện hiệu quả hoạt động của các công ty thoát nước. Các công ty này thường phụ thuộc vào vốn ngân sách do Ủy ban nhân dân tỉnh phân bổ. Các công ty cung cấp dịch vụ công ích phụ thuộc vào lãnh đạo tỉnh vì lãnh đạo tỉnh kiểm soát nhân sự, tài sản và quản lý các công ty này. Công ty công ích chỉ thực hiện các hoạt động đã được Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Xây dựng và Sở Tài chính phê duyệt theo hình thức Chỉ định hay Giao việc, nhưng giá trị hợp đồng không đủ để trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng. Chưa địa phương nào ký hợp đồng quản lý vận hành với công ty cung cấp dịch vụ thoát nước như quy định trong điều 28 Nghị định 88/2007/NĐ-CP và thông tư 09/2009/TT-BXD. Nguyên nhân chính là phí thoát nước hiện nay được quy định quá thấp và địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện công việc giao kết (nếu có). Điều kiện tiên quyết để thiết lập được mô hình quản lý hiệu quả là phải quy định rõ ràng quyền sở hữu hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải đô thị, tạo lập mối quan hệ thị trường giữa các bên tham gia cung cấp và sử dụng dịch vụ và xây dựng các chính sách phù hợp để thu hồi chi phí vận hành, bảo dưỡng hệ thống. 60. Việt Nam chưa ban hành quy định về hoạt động thông hút bể tự hoại, vận chuyển, xử lý và đổ thải phân bùn của khối tư nhân trong khi vai trò và trách nhiệm quản lý phân bùn của các đơn vị công ích đô thị lại được quy định rõ ràng. Tuy nhiên, các công ty tư nhân lại hoạt động theo nguyên tắc thị trường và cạnh tranh mạnh mẽ với doanh nghiệp công ích. Công ty tư nhân cố gắng giảm chi phí hoạt động, thường là bằng cách đổ trái phép phân bùn. Vì nhiều công ty tư nhân không đăng ký kinh doanh, nên họ khó phối hợp tốt với các công ty cung cấp dịch vụ của nhà nước, khó tiếp cận được nguồn tài trợ ưu đãi, và khó nhận được hỗ trợ kỹ thuật từ bên ngoài. Hình 1.11 Kênh Nhiêu Lộc -Thị Nghè sau khi cải tạo 1.3.4. Xã hội Vốn đầu tư cơ bản 61. Ước tính các dịch bệnh liên quan tới VSMT và nước gây thiệt hại 34% trong tổng số 780 triệu USD thiệt hại kinh tế hàng năm do VSMT kém gây ra tại Việt Nam13. 66% thiệt hại còn lại là do ô nhiễm nguồn nước (287 triệu Đô la Mỹ), tác động tới giá trị sử dụng đất (118 triệu Đô la Mỹ), chi phí thời gian tìm địa điểm đi vệ sinh (41,6 triệu Đô la Mỹ), và nguy cơ thiệt hại về du lịch (69 triệu Đô la Mỹ) gây ra. Ảnh: Trần Quang Hưng, 2013 Nguyễn N. T. và cộng sự. Sáng kiến đánh giá kinh tế trong VSMT. WSP/WB. 2007. 13 41 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 62. Thái độ chấp nhận tình trạng nước thải chưa xử lý xả ra môi trường là thách thức chính đối với nỗ lực tăng tỷ lệ đấu nối hộ gia đình và tăng phí nước thải ở các đô thị Việt Nam. Ở hầu hết các đô thị, nước thải từ các bể tự hoại được xả trực tiếp vào hệ thống thoát nước lộ thiên, bốc mùi, gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù người dân nhận thức được và đánh giá cao các lợi ích do công tác thu gom và xử lý nước thải mang lại, chỉ một số ít các hộ gia đình thực hiện các biện pháp bổ sung ngoài các phương pháp xử lý nước đen truyền thống trong các bể tự hoại. Hầu hết các hộ gia đình chỉ cần giữ nhà vệ sinh sạch sẽ, tiện lợi và không bị úng ngập. Các lãnh đạo và chính quyền địa phương hầu như đều nhận rõ cần phải ưu tiên cải thiện VSMT. Tuy nhiên việc triển khai các hoạt động hỗ trợ cải thiện mất nhiều thời gian, do đó làm chậm tiến độ cải thiện VSMT. 63. Các công ty quản lý nước thải nhiều khi lờ đi lợi ích của việc nâng cao nhận thức cộng đồng khi thực hiện các hoạt động quản lý nước thải. Chính quyền địa phương dùng ngân sách thành phố để tài trợ công tác vận hành và bảo dưỡng công trình thoát nước thông qua công ty chịu trách nhiệm vận hành hệ thống này. Cách phân công như vậy khiến công ty vận hành không tham gia tích cực, không quan tâm đến các lo ngại của người sử dụng dịch vụ do thu nhập của các công ty không phụ thuộc vào doanh thu phí dịch vụ. 64. Về lý thuyết, chi phí vận hành hệ thống thoát nước cần được thu hồi toàn bộ. Cần thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Theo đó, “chi phí dịch vụ nước thải” hay “giá dịch vụ nước thải” nên được dùng thay thế cho thuật ngữ “phí nước thải”. Cần thực hiện các hoạt động thông tin – giáo dục – truyền thông và theo dõi – đánh giá để cộng đồng nhận thức và đánh giá cao lợi ích do cải thiện VSMT mang lại. Tuy nhiên nếu phải thu hồi toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng các công trình quản lý nước thải thì phí nước thải sẽ vượt quá khả năng chi trả của nhiều người. Cần cân nhắc áp dụng mức thu chi phí dịch vụ nước thải tăng dần từng bước theo thời gian để bù đắp chi phí vận hành - bảo dưỡng, như vậy sẽ không gây ra khó khăn kinh tế và xã hội cho người sử dụng dịch vụ VSMT. Ngoài ra, việc lựa chọn công nghệ thích hợp có chi phí hợp lý cũng rất quan trọng. 1.3.5. Tài chính 65. Nhìn chung, nguồn vốn ngân sách chính để phát triển đô thị, bao gồm phát triển các hệ thống hạ tầng giao thông, cấp nước và quản lý nước thải là vốn ODA dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ kỹ thuật và vốn vay ODA (vốn vay ODA cho các dự án thoát nước và VSMT hầu hết đều được Chính phủ cấp phát - Chính phủ vay và cấp phát cho các địa phương để thực hiện dự án). Bảng 1.3 tóm tắt tình hình tài trợ phát triển đô thị Việt Nam bằng vốn nước ngoài trong giai đoạn 1993 đến nay. Tổng vốn đầu tư trong giai đoạn này đạt khoảng 8,9 tỷ USD. Trong giai đoạn 1995-2009, cam kết ODA, bao gồm vốn vay và viện trợ, đầu tư cho các dự án thoát nước lên tới 2.1 tỷ USD, chiếm 8% tổng ODA nhận được trong giai đoạn này. Phần lớn khoản tiền này được giải ngân trong giai đoạn 2001-2009, và gần một nửa số này được giải ngân trong năm 2008 và 2009 (theo báo cáo U3SAP, tháng 8/2012). Nhìn chung, nguồn vốn ODA tài trợ khoảng 80% vốn dự án vệ sinh đô thị, và chính phủ Việt Nam đóng góp khoảng 20% còn lại. Hơn 78% vốn ODA là vốn vay. Khoảng 50% số tài trợ này đã được giải ngân, còn lại 50% là vốn cam kết chưa được giải ngân. Con số vốn giải ngân và vốn cam kết khác nhau do sự chậm trễ khi thực hiện các thủ tục của nhà tài trợ và Chính phủ, năng lực nhà thầu yếu kém, và các khó khăn khi giải phóng mặt bằng. 42 báo cáo chính Bảng 1.3 Hỗ trợ tài chính nước ngoài cho phát triển đô thị, nước và VSMT (1993–nay) Nguồn tài trợ, triệu USD Giai đoạn Tổng cộng WB ADB JICA Khác 1995 – 2000 333,0 278,9 588,0 209,5 1.409,4 Vốn vay 317,0 270,0 588,0 143,0 Hỗ trợ kỹ thuật 16,0 8,9 N/A 38,0 Vốn viện trợ - - N/A 28,5 2001 – 2010 1.193,1 393,1 1.943,0 829,9 4.359,1 Vốn vay 1.190,0 364,0 1.943,0 593,0 Hỗ trợ kỹ thuật 3,1 26,0 - 27,9 Vốn viện trợ - 3,1 N/A 209,0 2011 –dự kiến 1.150,0 778,7 - 1.203,9 3.132,6 Vốn vay 1.150,0 766,0 N/A 1.090,0 Hỗ trợ kỹ thuật - 7,6 N/A 8,9 Vốn viện trợ - 5,1 N/A 105,0 Tổng 2.676,1 1.450,7 2.531,0 2.243,3 8.900 Nguồn: Số liệu thống kê của ADB. Phiên họp định kỳ giữa các nhà tài trợ. Văn phòng ADB Hà Nội, tháng 02/2012. 66. Do chưa xây dựng Chương trình quốc gia về VSMT, Chính phủ và nhà tài trợ trao đổi với nhau mỗi khi hình thành dự án VSMT. Hiện chưa xây dựng được cơ chế đối thoại hợp tác giữa chính phủ-nhà tài trợ về tài trợ ngành ở cấp cao, và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chính phủ ở cấp địa phương và trung ương còn chưa tốt. Cách thức hoạt động này không đảm bảo việc huy động hiệu quả các nguồn vốn ODA, và không phù hợp để có thể huy động đủ vốn đáp ứng nhu cầu phát triển VSMT. Do vậy, cần xây dựng Chiến lược quốc gia, và Chương trình mục tiêu quốc gia về VSMT, tương tự như Chương trình mục tiêu quốc gia về Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. 67. Từ năm 2006, ít nhất 1% tổng chi ngân sách trung ương được dành cho các hoạt động bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Trên thực tế, đây là phần ngân sách Nhà nước bắt buộc phải phân bổ trong phần “chi ngân sách thường xuyên” nằm dưới mục “các hoạt động bảo vệ môi trường”. 43 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hình 1.12 Nguồn vốn cho hoạt động xây dựng, vận hành và bảo dưỡng hệ thống thoát nước đô thị ở Việt Nam Vay Ngân sách Hộ gia đình ODA TW Các nguồn vốn khác Ngân sách TP Phí nước thải UB Quận, Doanh nghiệp Phường thoát nước Xây dựng Xây dựng Bể tự hoại và đấu nối HTTN Mạng cấp 3 hộ gia đình VH&BD VH, BD, nâng Hút bùn bể Mạng cấp 3 cấp HTTN tự hoại 68. Hầu hết vốn của địa phương trong các dự án dành cho giải tỏa đất đai, thi công, cải tạo mạng lưới cấp 3 đều bắt nguồn từ ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh (xem Hình 1.12). Thông thường Công ty Thoát nước thành phố chỉ chịu trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng các đường cống cấp 1, 2 dọc các tuyến phố. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm quản lý mạng lưới thu gom cấp 3 ở các ngõ xóm và khu dân cư. Nếu là khu vực đô thị mới, thì hạ tầng lại thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư dự án. Theo đó, ngân sách thành phố cấp cho Công ty Thoát nước và cho chính quyền quận/huyện, phường để chi trả phần chi phí vận hành, bảo dưỡng chưa được phí dịch vụ bù đắp, và chi trả chi phí nâng cấp mạng lưới. Các hộ gia đình tự đấu nối vào mạng lưới cấp 3, hoặc nếu nhà mặt phố thì đấu nối trực tiếp vào đường cống cấp 2 hoặc cấp 1. Hộ gia đình phải trả phí thoát nước. 69. Có thể đánh giá tính bền vững về mặt tài chính của hệ thống quản lý nước thải thông qua mức độ thu hồi chi phí vận hành và bảo dưỡng từ phí dịch vụ. Tuy nhiên, ở Việt Nam, thu từ phí dịch vụ nước thải chỉ đủ trang trải một phần nhỏ của tổng chi phí thực tế, ngân sách nhà nước hỗ trợ phần lớn chi phí vận hành để đảm bảo công trình tiếp tục hoạt động. Dự kiến xu hướng này sẽ vẫn tiếp diễn trong tương lai. 70. Số dân đô thị đang gia tăng nhanh chóng và các quyết định cải thiện dịch vụ đô thị của Chính phủ khiến chi phí dành cho lĩnh vực VSMT tăng lên. Trong vòng 15 năm từ 1995 đến 2009, Việt Nam đã chi khoảng 2,1 tỷ USD cho các hoạt động liên quan đến thoát nước và xử lý nước thải, trung bình 150 triệu USD mỗi năm (xem Hình 1.13 và Phụ lục A). 44 báo cáo chính Hình 1.13 Tỷ lệ vốn đầu tư vào các công trình vệ sinh đô thị 12% 16% Mạng lưới thoát nước mưa Mạng lưới thoát nướcthải Nhà máy xử lý nước thải 28% 44% Máy bơm, trang thiết bị khác Nguồn: Hydroconseil, 2010 Chi phí vận hành và doanh thu từ hoạt động thoát nước và xử lý nước thải 71. Nghị định 67/2003 (đã sửa đổi thành Nghị định 25/2013) và Nghị định 88/2007 quy định thu phí nước thải theo một tỷ lệ phần trăm trên giá nước sạch. Trong quá trình khảo sát các đơn vị quản lý hệ thống thu gom và xử lý nước thải ở Việt Nam, Đoàn đánh giá đã thu thập được dữ liệu vận hành, bảo trì cũng như doanh thu dự kiến thu được. Do giá nước sạch giữa các thành phố lớn, thành phố thuộc tỉnh và các thị trấn khác nhau, doanh thu thực tế cũng khác nhau. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trình bày trong Bảng 1.4 dưới đây cho thấy hiện trạng thu phí ở Việt Nam (tất cả mức phí này đều tính theo giá nước sinh hoạt, mức phí thấp nhất trong biểu giá).. 72. Ngân sách địa phương phải bù đắp chi phí vận hành, bảo dưỡng thực tế của hệ thống vì phí thu được không đủ để trang trải chi phí này. Phí dịch vụ thu gom và xử lý nước thải được các công ty cấp nước thu theo hoá đơn nước và thường được thành phố hoặc tỉnh giữ lại để tái phân bổ cho các công ty thoát nước theo ngân sách hàng năm đã được phê duyệt. Ngân sách địa phương hỗ trợ phần chi phí vận hành, bảo dưỡng còn thiếu. Tuỳ vào mức độ quan tâm của cấp chính quyền địa phương đối với hoạt động của hệ thống quản lý nước thải mà hiệu quả của cách thức này cao hay thấp. Nếu ngân sách chỉ dành cho các hoạt động thường xuyên, việc bảo trì dài hạn có nguy cơ không được thực hiện, làm hệ thống thoát nước sớm xuống cấp, hư hỏng. 73. Khi cần sửa chữa lớn hay khi phát sinh tình huống phải sửa chữa khẩn cấp, các công ty vận hành sẽ gặp khó khăn vì ngân sách hàng năm không có khoản chi này. Khi đó, các công ty này phải xin thành phố phê duyệt, làm chậm việc sửa chữa, không cung cấp được dịch vụ, và cuối cùng có thể làm hệ thống không hoạt động, nếu không xử lý kịp thời. 45 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Bảng 1.4 Phí nước thải áp dụng ở các thành phố và thị xã Việt Nam (dữ liệu năm 2012) Phí bảo vệ môi trường đối với nước Thành phố Cơ sở tính Nguồn thải Hà Nội Công ty Nước sạch Hà Nội, 348 VNĐ/m3 10% giá nước sạch 2012 Hồ Chí Minh Tổng công ty Cấp nước Sài 480 VNĐ/m3 [1] 10% giá nước sạch Gòn, 2012 Khu đô thị mới Sai Gon Water Supply 930 VNĐ/m3 10% giá nước sạch Phú Mỹ Hưng Company, 2012 Quảng Ninh 510/m3 (Thành phố Hạ Long) 10% giá nước sạch đối với thành phố Hạ Long, 6% giá nước sạch tại các thành phố khác Đà Nẵng 777 VNĐ/m3 21% giá nước sạch, sẽ Trang web của chính quyền tăng lên 25% vào năm thành phố Đà Nẵng, 2012 2015 Buôn Ma Thuột 200 VNĐ/m3 (phí BVMT) hoặc Mức cố định, dưới 10% Trang web của Sở Xây dựng 2.800VNĐ/m3 (phí thoát nước) giá nước sạch Đắc Lắc, 2012 (2012) Đà Lạt 300 VNĐ/m3 (phí BVMT đối với hộ Mức cố định, có phân chưa đấu nối) hoặc 1,000 VNĐ/m3 biệt hộ đã đấu nối và hộ (hộ đã đấu nối) chưa đấu nối Băc Giang 200/ VNĐ/m3 (phí BVMT) hoặc 4800 Mức cố định, dưới 10% Trang web của chính quyền VNĐ/m3 (phí thoát nước) (2012) giá nước sạch thành phố Bắc Giang, 2012 Chú thích: [1] Hiện đã được điều chỉnh lên mức 770 VNĐ/m3 74. Sự hỗ trợ và trợ cấp từ Chính phủ không đủ để giúp cải thiện dịch vụ và phát triển hoạt động VSMT hiệu quả. Trong hầu hết các trường hợp, các khoản tài trợ này chỉ đáp ứng nhu cầu tài chính cơ bản, đủ để duy trì hoạt động chứ không dành cho việc mở rộng và cải tiến chất lượng dịch vụ VSMT. Hiện nay, việc mở rộng phạm vi dịch vụ VSMT chỉ trông vào nguồn vốn từ các đơn vị tài trợ, hoặc vay từ các tổ chức tài chính vay quốc tế. Ngân sách địa phương còn hạn chế và không ưu tiên đầu tư mở rộng phạm vi dịch vụ VSMT. 75. Hoạt động bảo dưỡng đường ống cũng rất khác nhau, tuỳ theo đó là việc sửa chữa khẩn cấp hay là bảo dưỡng định kì. Tình trạng hoạt động của các công trình thoát nước do đó cũng tương xứng với mức độ bảo dưỡng. Chi phí vận hành công trình thoát nước bao gồm chi phí vận hành và bảo dưỡng mạng lưới thoát nước, trạm bơm và các nhà máy xử lý nước thải. Các chi phí này rất khác nhau, tuỳ theo hệ thống thoát nước chung hay riêng, số lượng các trạm bơm, và loại công nghệ áp dụng để xử lý nước thải. Các nhà máy xử lý nước thải có trình độ cơ khí cao (chiếm đa số trong các nhà máy đã khảo sát) có chi phí hoạt động cao do sử dụng nhiều điện, hoá chất và nhân công hơn. Bảng 1.5 dưới đây so sánh chi phí vận hành và bảo dưỡng của từng nhóm nhà máy xử lý nước thải chia theo công nghệ áp dụng. 76. Chi phí vận hành và bảo dưỡng nêu trong Bảng 1.5 nói trên phản ảnh xu hướng chi phí hoạt động trong các nhà máy này, cụ thể là: a. Công nghệ xử lý phức tạp thường có chi phí hoạt động cao hơn. 46 Bảng 1.5 So sánh chi phí vận hành và bảo dưỡng của các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động Hệ Chi phí vận hành và bảo dưỡng năm 2011 Chi phí vận Nhà máy xử lý thống (tỷ VND) hành, bảo Mức phí hiện nay STT Thành phố Quy trình xử lý nước thải thu gom Tuyến cống Nhà máy Thu hồi chi dưỡng nhà máy (VNĐ/m3) nước XLN phí thực tế XLNT (VNĐ/m3) Kỵ khí – Thiếu khí – Hiếu khí (Bùn 1 Kim Liên Chung 4,7 - 3.070 hoạt tính) Chung Kỵ khí – Thiếu khí – Hiếu khí (Bùn 385 tỷ đồng tiền 348 2 Trúc Bạch 4,1 - 5.060 hoạt tính) vận hành bảo Chung Kỵ khí – Thiếu khí – Hiếu khí (Bùn dưỡng toàn bộ Khu công nghiệp Thăng Long 3 Hà Nội Bắc Thăng Long 7,1 5,1 2.800 hoạt tính) HTTN, bao gồm (xử lý ở nhà máy Bắc Thăng các nhà máy 1, Long): 2,400 Chung Bể phản ứng theo mẻ (Bùn hoạt tính) 2, 3 4.110 (khi khởi động); 1.686 4 Yên Sở - - (Phú Điền - SFC, 1/2014) 5 Bình Hưng Chung Hồ sục khí/ Hồ hoàn thiện - 60,823 - 969 480 6 Bình Hưng Hòa Chung Bùn hoạt tính truyền thống - 10,544 - - TP. Hồ Chí Cảnh Đồi, Phú Mỹ Mương oxy hóa 7 Minh Riêng - - - - Hưng (Bùn hoạt tính) 930 Nam Viên, Phú Kỵ khí – Thiếu khí – Hiếu khí (Bùn 8 Riêng - - - - Mỹ Hưng hoạt tính) 9 Hòa Cường Chung Hồ kỵ khí 1,295 118 18,356 tỷ đồng 10 Ngũ Hành Sơn Chung Hồ kỵ khí cho toàn bộ 0,782 2010: 17,09 103 Đà Nẵng 777 (21% giá nước sạch, 2012) 11 Sơn Trà Chung Hồ kỵ khí hệ thống thoát 0,859 2011: 39,02 112 nước thành phố 12 Phú Lộc Chung Hồ kỵ khí 1,148 196 13 Bãi Cháy Chung Bể phản ứng theo mẻ (Bùn hoạt tính) - 2,918 - 1.830 Quảng Ninh 510 14 Hà Khánh Chung Bể phản ứng theo mẻ (Bùn hoạt tính) - 3,276 - 1.806 Riêng 9,706 tỷ đồng 5.139 (cả hệ 1,000 đối với hộ đã đấu nối (NĐ 15 Đà Lạt Đà Lạt Bể lắng hai vỏ+ Lọc nhỏ giọt cho toàn bộ - 1,705 thống); 1.100 88); 300 đối với các hộ khác HTTN thành phố (TXLNT) (NĐ 67) 16 BMT Buôn Ma Thuột Riêng Chuỗi hồ 3,938 4,626 2,427 2.367 200 (dưới 10% giá nước sạch) 17 Bắc Giang Bắc Giang CSS Mương ô-xy hóa (Bùn hoạt tính) 3,936 3,2 - 1.039 200 (dưới 10% giá nước sạch) 47 báo cáo chính đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam b. Các nhà máy xử lý nước thải lớn hơn như Yên Sở và Bình Hưng, dù có giải pháp công nghệ cao hơn, nhưng lại có chi phí thấp hơn nhờ hiệu quả kinh tế về quy mô;14 c. Các công nghệ xử lý nước thải đơn giản thường tốn ít chi phí vận hành hơn. d. Khi áp dụng công nghệ xử lý phức tạp hơn, cần phải tăng phí nước thải. Các kết luận này được khẳng định khi xem xét các biểu đồ thể hiện chi phí đầu tư cơ bản và chi phí vận hành bảo dưỡng của 17 nhà máy xử lý nước thải có thực hiện lưu trữ dữ liệu (xem Hình 1.14 - Hình 1.17). Chi phí vận hành, bảo dưỡng trong Hình 1.17 được tính theo VNĐ/m3 để dễ so sánh với phí nước thải đang áp dụng tại thành phố. Do không có đủ dữ liệu nên Đoàn công tác không so sánh chi phí đầu tư và chi phí vận hành, bảo dưỡng phần mạng lưới thoát nước. Hình 1.14 So sánh chi phí đầu tư cơ bản (CAPEX, USD/đầu người) của các nhà máy xử lý nước thải áp dụng các nhóm công nghệ xử lý khác nhau Suất đầu tư xây dựng trạm XLNT (USD/người) 450 400 Nhóm 1: Bùn hoạt tính 350 300 Nhóm 2: Hồ sinh học, USD/người 250 lọc sinh học, kênh oxy hóa 200 150 100 50 0 0 2 4 6 8 10 Các TXLNT đã khảo sát Ghi chú: - Nhóm 1: Bùn hoạt tính (CAS, A2O, SBR) + xử lý bùn - Nhóm 2: Chuỗi hồ, hồ sục khí, bể lọc sinh học, mương oxy hóa + xử lý bùn Không tính đến chi phí vận hành và bảo dưỡng mạng lưới thu gom. 14 48 báo cáo chính Hình 1.15 So sánh chi phí vận hành, bảo dưỡng (OPEX, USD/người/năm) cho các nhà máy xử lý nước thải áp dụng các nhóm công nghệ xử lý khác nhau Chi phí VH&BD trạm XLNT (USD/người/năm) 18 16 14 USD/người/năm USD/người/năm Nhóm 1: Bùn hoạt tính 12 10 8 6 4 2 Nhóm 2: Hồ sinh học, lọc sinh học 0 0 2 4 6 8 10 Các TXLNT đã khảo sát Ghi chú: - Nhóm 1: Bùn hoạt tính (CAS, A2O, SBR) + xử lý bùn; - Nhóm 2: Chuỗi hồ, hồ sục khí, bể lọc sinh học, lọc nhỏ giọt + xử lý bùn. Hình 1.16 So sánh chi phí vận hành bảo dưỡng (OPEX, USD/m3 nước thải xử lý) của các nhà máy xử lý nước thải áp dụng nhóm công nghệ xử lý khác nhau Chi phí xử lý NT (USD/m3 3) 0.30 Nhóm 1: Bùn hoạt tính 0.25 0.20 Nhóm 2: Hồ sinh học, lọc sinh học, kênh oxy hóa m33 USD/ m 0.15 USD/ 0.10 0.05 0.00 0 2 4 6 8 10 Các TXLNT đã khảo sát Ghi chú: - Nhóm 1: Bùn hoạt tính (CAS, A2O, SBR) + xử lý bùn; - Nhóm 2: Chuỗi hồ, hồ sục khí, bể lọc sinh học, mương oxy hóa + xử lý bùn. 49 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hình 1.17 So sánh chi phí vận hành, bảo dưỡng (VNĐ/m3 nước thải được xử lý) của các nhà máy XLNT theo nhóm công nghệ xử lý và phí nước thải Chi phí VH&BD các TXLNT so với phí nước thải hiện nay 6,000 Nhóm 1: Bùn hoạt tính 5,000 4,000 Nhóm 2: Hồ sinh học, lọc sinh học, kênh oxy hóa VND/m 3 3,000 2,000 1,000 - 0 2 4 6 8 10 Các TXLNT đã khảo sát Chi phí XLNT (VND/m3) Phí thoát nước hiện nay (VND/m3) Ghi chú: - Nhóm 1: Bùn hoạt tính (CAS, A2O, SBR) + xử lý bùn; - Nhóm 2: Chuỗi hồ, hồ sục khí, bể lọc sinh học, mương oxy hóa + xử lý bùn. 77. Không công trình xử lý nước thải đô thị nào đang hoạt động ở Việt Nam thu hồi đủ chi phí. Số liệu thu thập được từ các công ty đang vận hành công trình xử lý nước thải cho thấy, tỷ lệ chi phí thu hồi được ở Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng (thành phố Đà Lạt) là 17,6% và ở Công ty Quản lý đô thị và môi trường Đắc Lắc (thành phố Buôn Ma Thuột) là 28,3%. 78. Đầu tư vào lĩnh vực VSMT không phải là chi phí chìm; mọi người có thể nhận được các lợi ích kinh tế chủ chốt với mức chi phí có thể trang trải được. Một nghiên cứu gần đây của Chương trình Nước và Vệ sinh môi trường của Ngân hàng Thế giới (WSP)15 cho thấy tỷ suất lợi ích – chi phí16 VSMT tốt ở 17 khu vực đô thị và nông thôn Việt Nam là 1.4-11. Các lợi ích kinh tế định lượng là giảm thiểu được các tác động liên quan đến sức khỏe, nước uống, thời gian tiếp cận VSMT và lợi ích từ tái sử dụng chất thải con người. 79. Chính quyền hầu hết các địa phương/thành phố chưa sẵn sàng tính đúng, tính đủ chi phí khi tính phí dịch vụ. Hãy lấy thí dụ ở Buôn Ma Thuột, nơi chất lượng dịch vụ của công ty vận hành công trình được cộng đồng đánh giá cao, và các hộ gia đình sẵn sàng đấu nối vào hệ thống thu gom nước riêng nếu hệ thống này được mở rộng ở giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, ngay cả khi người dân hài lòng như vậy, chính quyền Buôn Ma Thuột không tiến hành các hoạt động để làm tăng tỷ lệ chi phí thu được, mà vẫn duy trì hỗ trợ chi phí hoạt động các công trình này từ ngân sách địa phương. Ở các thành phố khác, mặc dù đã cam kết trong Thỏa thuận vay vốn sẽ tăng dần phí nước thải nhưng hầu hết chính quyền đều không thực hiện. Quan điểm không sẵn sàng tính phí này là kết quả của cơ chế Nhà nước trợ cấp các hoạt động thiếu Nguyễn V. A. và cộng sự. Báo cáo nghiên cứu Đánh giá lợi ích kinh tế của các biện pháp can thiệp VSMT ở Việt Nam. 15 Thuộc Sáng kiến đánh giá kinh tế trong VSMT. Nghiên cứu thực hiện ở 6 quốc gia gồm Campuchia, Indonexia, Lào, Philippin, Việt Nam và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Chương trình Nước và Vệ sinh, Ngân hàng Thế giới 01/2013. Tỷ suất lợi ích – chi phí được định nghĩa là hiệu quả kinh tế của mỗi đồng đầu tư. 16 50 báo cáo chính vốn. Quan điểm này có thể thay đổi khi nhu cầu mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ thu gom và xử lý nước thải và cải thiện chất lượng dịch vụ gây áp lực lên ngân sách địa phương, nhưng điều này sẽ cần nhiều thời gian và quyết tâm chính trị. Đầu tư của khối tư nhân 80. Đầu tư của khối tư nhân vào thu gom và xử lý nước thải trong các dự án phát triển đô thị mới là xu hướng hiện nay ở hầu hết các thành phố. Cho dù chính quyền thành phố chưa xây dựng được các nhà máy xử lý nước thải tập trung, tiêu chuẩn xả thải hiện hành vẫn buộc các chủ đơn vị kinh doanh, bệnh viện, văn phòng và khách sạn phải xử lý nước thải sinh hoạt trước khi xả vào hệ thống thoát nước chung của thành phố đạt tiêu chuẩn loại B, QCVN 14:2008/BTNMT. Quy định này áp dụng cả cho các khu đô thị mới. Đến tháng 08/2012, theo Bộ Xây dựng, cả nước có khoảng 800 khu đô thị mới đăng ký với tổng diện tích là 120.500 ha (Bộ XD, 2012). Doanh thu từ phí nước thải (hầu hết áp dụng mức 10% giá nước sạch) không thể bù đắp chi phí đầu tư, vận hành và bảo dưỡng công trình thu gom và xử lý nước thải. 81. Mặc dù đầu tư khối tư nhân vào lĩnh vực VSMT có thể giúp làm giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước nhưng nhân tố này chưa được xem xét trong quá trình lập kế hoạch phát triển VSMT thành phố. Việc lập quy hoạch chưa tốt dẫn đến tình trạng xây dựng công trình chồng chéo. Ví dụ nhà đầu tư Vingroup phải xây dựng một trạm xử lý nước thải công suất 2.700 m3/ngày trong dự án phát triển khu đô thị mới Times City ở Hà Nội. Nước đã xử lý ở nhà máy này được xả vào hệ thống thoát nước chung và chảy ra sông Kim Ngưu, nhưng dưới hạ lưu điểm xả một đoạn ngắn thì nước sông Kim Ngưu lại được bơm vào nhà máy Yên Sở có công suất 200.000 m3/ngày để xử lý. Nhà đầu tư này hiện cũng đang thi công trạm xử lý có công suất 4.500 m3/ngày trong dự án phát triển khu đô thị mới Royal City ở phố Nguyễn Trãi, Hà Nội. Nhà máy này nằm ở khu vực phục vụ của nhà máy xử lý nước thải Yên Xá có công suất 270.000 m3/ ngày; tuy nhiên trong quá trình thiết kế nhà máy Yên Xá không tính đến trạm xử lý phân tán này. 82. Các nhà đầu tư phát triển khu đô thị mới thường tìm cách trì hoãn thi công các công trình xử lý nước thải để giảm thiểu chi phí đầu tư cơ bản và chi phí vận hành. Hiện mới chỉ có một số ít nhà máy xử lý nước thải cho các khu đô thị mới đã xây dựng xong và đưa vào vận hành. Ví dụ điển hình là nhà máy XLNT Cảnh Đồi (công suất 10.000 m3/ngày, bắt đầu hoạt động vào năm 2007) và nhà máy XLNT Nam Viên (công suất 15.000 m3/ngày, bắt đầu hoạt động năm 2009) do chủ đầu tư khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống thoát nước riêng, với 90% hộ gia đình đấu nối và hai nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động, khiến khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng có môi trường sống tốt, là một trong những khu đô thị mới có tiêu chuẩn sống cao nhất ở Việt Nam. Nước thải sau xử lý được dùng để tưới cây, tạo cảnh quan, trong khi bùn thải xử lý được dùng để bón cây. Hai nhà máy này xử lý nước đạt tiêu chuẩn loại B, QCVN 14:2008, tổng chi phí đầu tư là 5,8 triệu USD (Nguồn: Trang web Công ty CP Phú Mỹ Hưng). 83. Các mô hình khuyến khích khối tư nhân tham gia khả thi khác là hợp đồng Xây dựng – Vận hành (BO), Xây dựng – Chuyển giao (BT), Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao (BOT), Thiết kế - Vận hành (DO) và Thiết kế - Xây dựng – Vận hành (DBO). Nhà đầu tư chịu mọi chi phí liên quan đến mạng lưới thu gom nước thải và/hoặc hệ thống xử lý và kỳ vọng nhận được kết quả tốt, mặc dù hầu hết các nhà đầu tư đều mong muốn được đổi lấy đất với các điều kiện ưu đãi để thực hiện các dự án xây dựng nhà ở và kinh doanh. Điển hình là các dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải Tây Hồ Tây (Hà Nội, hợp đồng BT, công ty Phú Điền), nhà máy xử lý nước thải Yên Sở (Hà Nội, hợp đồng BT, công ty Gamuda) và trong tương lai là dự án xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải ở Đà Nẵng (hợp đồng BO). Hiện nay còn quá sớm để đánh giá hiệu quả của các dự án này. 51 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 2. Phân tích hiệu quả quản lý vệ sinh môi trường đô thị 2.1. Động lực và rào cản 84. Phần này liệt kê các yếu tố thúc đẩy và hạn chế sự phát triển của lĩnh vực VSMT đô thị và cải thiện chất lượng dịch vụ VSMT đô thị, bao gồm các yếu tố theo các khía cạnh mà nó tác động: chính sách/thể chế, xã hội, kỹ thuật và tài chính. Chúng tôi trình bày các yếu tố nhằm nêu rõ các cơ hội và thách thức đối với sự phát triển và cải thiện dịch vụ VSMT đô thị ở Việt Nam. Các tiểu mục dưới đây sẽ phân tích chi tiết các động lực và rào cản chính, đưa ra ví dụ cụ thể về tác động của chúng đối với lĩnh vực VSMT ở Việt Nam. 2.1.1. Các yếu tố thúc đẩy phát triển VSMT đô thị Thiết lập khung chính sách pháp luật và thể chế chặt chẽ và hiệu quả 85. Cần xây dựng một khung chính sách pháp luật và thể chế toàn diện để phát triển hiệu quả lĩnh vực VSMT đô thị. Chính phủ Việt Nam đã phân công nhiệm vụ quản lý VSMT đô thị và nông thôn cho các bộ, ngành và xây dựng các văn bản luật và dưới luật có liên quan, nhằm thiết lập một khung chính sách pháp luật và tạo điều kiện cho công tác phân bổ nguồn lực thực hiện các hoạt động cải thiện VSMT. Chính phủ cũng linh hoạt và thường xuyên chỉnh sửa và cập nhật các quy định cho phù hợp với điều kiện thực tế. Đối với công tác quản lý nước thải, các văn bản pháp luật quan trọng nhất là: Chỉ thị số 36/CT-TW của Bộ Chính trị ban hành năm 1998, Nghị quyết số 41/NQ-TW của Bộ Chính trị ban hành năm 2004, Chỉ thị số 29/CT-TW của Bộ Chính trị ban hành năm 2009 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Luật Bảo vệ môi trường (ban hành năm 1995, sửa đổi năm 2005), Luật Tài nguyên nước (ban hành năm 1998, sửa đổi năm 2012), tiêu chuẩn nước thải sau xử lý (ban hành lần đầu năm 1995, sau đó sửa đổi và bổ sung thường xuyên), Nghị định 88/2007-NĐ-CP (đang sửa đổi), Quyết định số 1930/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về Định hướng thoát nước đô thị và khu công nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các chương trình và dự án đang được xây dựng và triển khai để thực hiện những mục tiêu đặt ra trong các văn bản này. Nhu cầu của cộng đồng, nâng cao nhận thức, không chấp nhận ô nhiễm 86. Mong muốn cải thiện chất lượng sống của người dân là một động lực mạnh mẽ. Khi có thu nhập cao hơn và được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, con người đều mong muốn sống có chất lượng hơn, môi trường sống tốt hơn. Hình 2.1 dưới đây cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa mức GDP trong thành phố và tỷ lệ dân số đô thị đấu nối vào mạng lưới thoát nước. Các thành phố Đông Á là động lực phát triển kinh tế. Khi tiếp tục phát triển kinh tế, mức thu nhập tăng sẽ kéo theo nhu cầu về môi trường sống tốt hơn. 52 báo cáo chính Hình 2.1 So sánh tỷ lệ đấu nối vào mạng lưới thoát nước với mức GDP/đầu người ở các đô thị Seoul GDP đầu người thành phố (thời gián hiện tại, USD) 20,000 18,000 Guangzhou 16,000 14,000 Kuala Lumpur 12,000 Bangkok Shanghai 10,000 Beijing 8,000 Jakarta 6,000 Manila Nanjing 4,000 Mumbai Delhi 2,000 Hanoi Kolkata 0 20 40 60 80 100 Tỷ lệ đấu nối vào mạng lưới thoát nước đô thị (%) Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2012 87. Thái độ không chấp nhận ô nhiễm của cộng đồng có thể là động lực để Chính phủ ban hành các chính sách; thái độ này cũng có thể tác động tích cực khiến cán bộ lãnh đạo phải hành động để tránh bị chỉ trích là không xử lý có hiệu quả các vấn đề môi trường quan trọng. Ta có thể thấy bằng chứng ô nhiễm do nước thải ở khắp các đô thị Việt Nam, như tình trạng cống thoát nước bị tắc, kênh/mương/sông hôi thối và trở thành nơi chứa nước thải của thành phố. Khi chất lượng sống được cải thiện, nhận thức của người dân ở các đô thị này được nâng cao nhờ các chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông về VSMT, cộng đồng sẽ đòi hỏi phải cải thiện môi trường đô thị. Các chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông này đã chứng minh hiệu quả tuyên truyền khi được triển khai trong các dự án ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột, khuyến khích người dân địa phương ủng hộ các hoạt động cải thiện VSMT và tạo ra nhu cầu sử dụng dịch vụ khi mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ trong những giai đoạn sau. Các chương trình này có ý nghĩa quan trọng để người dân chấp nhận và tham gia hoạt động thiết yếu của dự án là đấu nối hộ gia đình vào mạng lưới thoát nước công cộng. Thoát nước thải sinh hoạt 88. Nhiều hộ gia đình ở các khu vực đô thị Việt Nam không thể thoát nước thải tại chỗ do sinh sống trên diện tích nhỏ, trên nền đất ít thấm nước. Do vậy người dân gặp khó khăn khi thoát nước thải sinh hoạt tại chỗ, đặc biệt ở các khu vực không thể đấu nối vào hệ thống thoát nước chung hay riêng. Nước thải từ các công trình vệ sinh tại chỗ như bể tự hoại có thể gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm đất và làm hệ thống thoát nước bị quá tải; tình trạng này còn trở nên tệ hơn nếu nền đất thoát nước chậm. Chính quyền địa phương khi đó phải xây dựng hệ thống thu gom và thoát nước công cộng, thậm chí xây dựng chương trình thi công tuyến cống thoát nước chung cấp 3 trong nhiều ngõ hẻm nhỏ (ví dụ như chương trình đang thực hiện ở Hà Nội). Nhu cầu thoát nước thải của các hộ gia đình là nhân tố quan trọng thúc đẩy việc triển khai xây dựng hệ thống thoát nước công cộng (hệ thống thoát nước chung hay riêng). 53 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Tiếp cận vốn tài trợ 89. Tiếp cận nguồn vốn tài trợ là chất xúc tác giúp triển khai rộng rãi các chương trình VSMT. Tất cả các đô thị hiện có hệ thống quản lý nước thải đô thị (thoát nước và xử lý nước thải) đều có đặc điểm chung là đã tiếp cận thành công vốn tài trợ, có thể là vốn vay không hoàn lại hay vốn vay ưu đãi, nhờ đó có thể thực hiện các dự án đầu tư xây dựng công trình VSMT. Nếu không tiếp cận được các nguồn tài trợ này, chính quyền các đô thị đó không có đủ tài chính để thực hiện. Vốn đối ứng trong nước có thể tài trợ 10 - 20% tổng ngân sách dự án; tuy nhiên, chính quyền các địa phương không thể huy động đủ nguồn vốn để thực hiện các dự án này nếu không có sự hỗ trợ tài chính đáng kể của chính quyền trung ương. 90. Quy định bắt buộc xử lý nước thải và thiết lập được điều kiện sống tốt để hấp dẫn khách hàng là động lực quan trọng để chủ dự án đầu tư phát triển hạ tầng VSMT. Đối với các khu vực đô thị mới phát triển có sự tham gia của nhà đầu tư tư nhân, các doanh nghiệp này thường tự đầu tư hoặc vay thương mại để đầu tư phát triển hạ tầng, bao gồm cả các công trình thu gom và xử lý nước thải. Đổi đất lấy hạ tầng như trường hợp dự án nhà máy xử lý nước thải Yên Sở do công ty Gamuda thực hiện ở Hà Nội cũng là một cách để huy động thêm vốn tài trợ phát triển VSMT. 2.1.2. Yếu tố khuyến khích cải thiện chất lượng dịch vụ VSMT đô thị Sự tham gia và năng lực của chính quyền địa phương 91. Chính quyền địa phương có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và quản lý lâu dài các dịch vụ VSMT đô thị. Khi chính quyền địa phương tham gia tích cực (cán bộ vận hành và quản lý có năng lực, cam kết cung cấp dịch vụ có chất lượng) thì chất lượng dịch vụ VSMT đô thị sẽ được cải thiện đáng kể. Khi khảo sát, Đoàn công tác nhận thấy chính quyền thành phố Đà Lạt và Buôn Ma Thuột tham gia rất tích cực và chất lượng dịch vụ VSMT ở đây đã được cải thiện. Ngược lại ở một số thành phố khác đã khảo sát, chất lượng dịch vụ cung cấp thể hiện mức độ quan tâm cải thiện VSMT của chính quyền địa phương: không phân bổ đủ ngân sách và nguồn lực, cán bộ không có động lực để cải thiện dịch vụ, đầu tư nguồn lực để xây dựng chiến lược và quy hoạch, lựa chọn giải pháp phù hợp và thực thi dự án chưa thỏa đáng, ... Cam kết thu hồi chi phí vận hành của chính quyền địa phương 92. Cam kết hỗ trợ chi phí vận hành – bảo dưỡng của chính quyền địa phương có thể là một nhân tố có ảnh hưởng lớn đế công tác cải thiện chất lượng dịch vụ VSMT đô thị. Hoạt động thu hồi chi phí vận hành – bảo dưỡng công trình hiện nay ở Việt Nam chưa đảm bảo tài chính bền vững cho hệ thống quản lý nước thải do các quy định về phí chưa phù hợp và người dân chưa sẵn sàng trả phí dịch vụ cao hơn trong khi chính quyền địa phương chưa muốn tăng phí. Thông thường, phí nước thải thu theo hóa đơn nước sạch chỉ đủ trang trải 20 – 30% chi phí vận hành và bảo dưỡng. Do vậy, chính quyền địa phương cần cam kết hỗ trợ tài chính để bù đắp phần chi phí thiếu hụt. Cam kết này phải lâu dài, đủ trang trải cho các hoạt động vận hành – bảo dưỡng định kỳ và khẩn cấp. Nếu có đủ ngân sách cho vận hành – bảo dưỡng thì công trình sẽ hoạt động tốt và cải thiện được hiệu quả dịch vụ VSMT. 2.1.3. Các yếu tố cản trở phát triển VSMT đô thị Chính quyền địa phương không ưu tiên đầu tư: Cách tiếp cận từ trên xuống 93. Chính quyền địa phương phân bổ ngân sách nhận được cho các hoạt động theo thứ tự ưu tiên, trong đó có lĩnh vực VSMT. Hầu hết các tỉnh nhận hỗ trợ từ ngân sách trung ương để phát triển hạ tầng. Tình trạng thiếu vốn đối ứng trong nhiều dự án sử dụng vốn vay ODA hay vốn vay không hoàn lại khiến 54 báo cáo chính dự án triển khai chậm chễ. Ngoài ra, thực hiện ít hoạt động vận hành – bảo dưỡng không đúng quy trình chuẩn cũng có thể khiến hệ thống bị hư hỏng, ảnh hưởng đến hiệu quả và tính bền vững của dự án. Phương pháp tiếp cận từ trên xuống cũng hạn chế khả năng huy động các nguồn lực tiềm năng và sự tham gia của các bên có liên quan như hộ gia đình, khu vực tư nhân, chính quyền địa phương. Ngoài ra, cách tiếp cận này cũng cản trở các hoạt động quan trọng khác trong cộng đồng như đấu nối hộ gia đình, sẵn sàng trả phí dịch vụ nước thải. Quan liêu và chậm cải cách thủ tục hành chính 94. Yếu tố này nói về mức độ các dự án VSMT đô thị bị ảnh hưởng bởi tình trạng quan liêu của các cơ quan ở địa phương. Khi chính quyền quan liêu và ra quyết định chậm, VSMT đô thị không thể phát triển. Việt Nam là quốc gia có trên 87 triệu dân nhưng hiện mới chỉ có 17 hệ thống xử lý nước thải tập trung tính đến thời điểm cuối năm 2012. Mặc dù số lượng hệ thống xử lý nước thải sẽ tăng nhanh chóng trong những năm tới, khi năng lực quản lý các công trình này được cải thiện, nhưng nguyên nhân của tình trạng trên là do chính quyền địa phương làm việc không hiệu quả. Việt Nam vẫn có thể cải thiện tình trạng này vì thời gian thực hiện dự án (từ hình thành dự án đến giai đoạn chạy thử) thường kéo dài 5 đến 10 năm. Thiếu hoạt động Thông tin – Giáo dục – Truyền thông; nhận thức của cộng đồng còn hạn chế 95. Việt Nam chưa thực hiện nhiều hoạt động Thông tin – Giáo dục – Truyền thông, do đó cộng đồng chưa nhận thức được các lợi ích VSMT tốt mang lại và cản trở sự phát triển của lĩnh vực VSMT. Điều này thể hiện rõ ràng trong dự án thu gom và xử lý nước thải ở Bắc Giang. Các hoạt động Thông tin – Giáo dục – Truyền thông còn yếu khiến nhận thức người dân ít được nâng cao và chính quyền địa phương không tham gia/cam kết thực hiện dự án. Trong các dự án có hợp phần Thông tin – Giáo dục – Truyền thông, hoạt động này có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích cộng đồng ủng hộ các dự án VSMT đô thị, đặc biệt khi dự án có liên quan đến các vấn đề xã hội nhạy cảm như đấu nối hộ gia đình. Phát triển đô thị thiếu kiểm soát; Chưa lập quy hoạch tổng thể 96. Mặc dù chưa lập quy hoạch thoát nước17, nhiều tỉnh đang triển khai các dự án nước thải. Hầu hết các dự án vướng khó khăn khi lựa chọn tổ chức thoát nước, phân vùng và phân đợt thực hiện dự án, xác định hoạt động ưu tiên thực hiện (đấu nối hộ gia đình, xây dựng mạng lưới thu gom và nhà máy xử lý nước thải). Trong một số dự án, do kế hoạch phát triển VSMT không đưa ra các giải pháp nên chính quyền địa phương không dành đủ diện tích đất cho nhà máy xử lý và vùng đệm an toàn. Ngoài ra, công tác lập kế hoạch phát triển VSMT ở các tỉnh gặp nhiều khó khăn do các tỉnh chưa có đủ nhân lực giám sát và mức phạt đối với các hành vi vi phạm như lấn chiếm kênh mương hay đấu nối trái phép vào hệ thống thoát nước công cộng chưa đủ sức răn đe. Việc không kiểm soát chặt chẽ khiến đô thị phát triển không theo quy hoạch đã phê duyệt cũng gây không ít khó khăn. Cần ban hành quy định xây dựng và phê duyệt kế hoạch VSMT, làm cơ sở cho hoạt động phát triển và quản lý đô thị ở trung ương và địa phương. Đấu nối hộ gia đình 97. Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình chưa cao là một trở ngại đối với sự phát triển của lĩnh vực VSMT. Đấu nối hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với cả hệ thống thoát nước chung và riêng. 60% hộ dân đấu nối trực tiếp hoặc gián tiếp vào hệ thống thoát nước công cộng, nhưng chủ yếu là ở các quận nội thành ở các đô thị vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Ở các địa phương khác, tỷ lệ đấu nối còn thấp, đặc biệt là ở khu vực có nền đất cát có khả năng thấm hút tốt. Các đơn vị thực hiện đều công nhận đấu nối hộ gia đình là một vấn đề khó, Hiện nay 10 tỉnh đã lập quy hoạch thoát nước. 17 55 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam do có liên quan đến công trình trong nhà Hình 2.2 Ngập lụt tại Hà Nội tháng 11/2008 dân, có thể phải bố trí lại và/hoặc thay thế các đường ống vệ sinh trong nhà. Thường thì chính quyền địa phương không nhiệt tình thực hiện hoạt động này do họ biết có thể sẽ phải đối mặt với nhiều phàn nàn. 2.1.4. Yếu tố cản trở hoạt động cải thiện dịch vụ VSMT đô thị Phân công chức năng nhiệm vụ vận hành và bảo trì manh mún; Hoạt động phối hợp giữa các bên có liên quan còn yếu 98. Việc phân công trách nhiệm rời rạc cho các bên có liên quan khiến công tác phối Nguồn: vnexpress.net hợp gặp nhiều khó khăn và hạn chế hiệu quả đầu tư. Một số công ty thoát nước/công trình đô thị chỉ thực hiện các hoạt động vận hành – bảo dưỡng ở mức tối thiểu do thiếu năng lực thực hiện và thiếu ngân sách. Hầu hết các thành phố gặp phải khó khăn này, cộng đồng và chính quyền địa phương chịu trách nhiệm thực hiện đấu nối hộ gia đình và xây dựng mạng lưới thu gom cấp ba trong khi công ty thoát nước chịu trách nhiệm thi công các đường cống chính và nhà máy xử lý nước thải. Người dân không sẵn sàng trả phí khi họ không hài lòng với chất lượng dịch vụ nhưng trách nhiệm được phân công manh mún khiến khó xác định đơn vị chịu trách nhiệm ở đây. Ở một số thành phố, nhiều doanh nghiệp cùng được phân công vận hành – bảo dưỡng mạng lưới thoát nước, trạm bơm và nhà máy xử lý nước thải. Hầu hết các kế hoạch phát triển VSMT không xem xét việc tái sử dụng nước thải và bùn thải, hoạt động này đến nay chưa được kiểm soát. Năng lực của các cơ quan, ban ngành có liên quan còn hạn chế 99. Năng lực của cán bộ Ban quản lý dự án, nhà thầu và của các đơn vị có liên quan dự án nước thải còn hạn chế. Năng lực quản lý dự án yếu thể hiện rõ qua tình trạng giải tỏa đất chậm, quản lý và giám sát nhà thầu không hiệu quả, quản lý tài chính dự án kém, không nắm được quy trình thi công cơ bản cũng như quy định đấu thầu của Việt Nam và các nhà tài trợ. Các yếu kém của đơn vị thiết kế và thi công khiến chất lượng công trình không đảm bảo, hư hỏng. Hoạt động vận hành – bảo dưỡng công trình sau khi thi công gặp nhiều khó khăn do thiếu cán bộ kỹ thuật được đào tạo đầy đủ, phù hợp. Ngoài ra, tầm nhìn kém khi lập kế hoạch phát triển đô thị về quản lý nước thải cũng là một trở ngại lớn đối với phát triển lĩnh vực VSMT đô thị, có thể khiến công tác lập kế hoạch và thực hiện dự án quản lý nước thải không hiệu quả, tốn kém. 2.2. Các vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển VSMT 100. Phần này sẽ trình bày các vấn đề chính hiện được coi là có tác động đến sự phát triển VSMT ở Việt Nam. Đó là lựa chọn công nghệ xử lý nước thải phù hợp và vận hành đúng kỹ thuật, loại hệ thống thoát nước (chung hay riêng), đấu nối hộ gia đình, tiêu chuẩn nước thải sau xử lý, thu hồi chi phí, quản lý phân bùn và mô hình đơn vị thu gom và xử lý nước thải. Đây là các vấn đề hầu hết các dự án gặp phải khi lập kế hoạch quản lý nước thải, thực hiện dự án và vận hành – bảo dưỡng hệ thống. 56 báo cáo chính 2.2.1. Công nghệ xử lý nước thải Hiệu quả hoạt động của nhà máy xử lý nước thải 101. Nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung rất thấp, nhưng nhiều nhà máy xử lý lại được thiết kế để xử lý nước có thông số ô nhiễm cao hơn. Hệ thống thoát nước chung hiện đang thu gom và cung cấp nước thải cho 13 trong số 17 nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động ở Việt Nam, với tổng công suất thiết kế là 552.000 m3/ngày. Theo báo cáo của 13 nhà máy này, nồng độ BOD, COD, SS, N, P trong nước thải đầu vào tiếp nhận ở các nhà máy rất thấp (xem phần 1.3.2). Trong số 13 nhà máy nói trên, 8 nhà máy có tổng công suất là 406.000 m3/ngày hiện đang áp dụng các giải pháp xử lý bằng bùn hoạt tính (bùn hoạt tính truyền thống, kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí, phản ứng theo mẻ, mương ô-xy hóa), vốn phù hợp để xử lý nước thải có nồng độ chất hữu cơ và các thông số ô nhiễm khác cao hơn. Khi so sánh tiêu chuẩn xả thải về thông số BOD trong nước thải sau xử lý cần đạt được của của 7 trong số 8 nhà máy này hiện là 67,5mg/l, một câu hỏi nảy sinh ở đây là tại sao Việt Nam phải lựa chọn áp dụng công nghệ kỹ thuật cao như vậy để xử lý nước thải vốn đạt tiêu chuẩn môi trường ngay cả khi áp dụng các giải pháp xử lý có chi phí thấp? Điều này cho thấy tình trạng sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả khi lựa chọn công nghệ xử lý nước thải. Hình 2.3 Trạm xử lý nước thải Bắc Giang Ảnh: Nguyễn V. A., 2012 102. Đối với nguồn nước có nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải thấp, một giải pháp khác là áp dụng các quá trình xử lý sơ bộ. Các hệ thống xử lý sơ cấp này có thể kết hợp với hóa chất tăng cường, nhờ đó cho kết quả chấp nhận được và có thể điều chỉnh dễ dàng nếu nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào thay đổi. Chi phí thi công và vận hành công trình này ít hơn, do đó có thể tiết kiệm vốn để đầu tư cho các dự án khác và giảm chi phí mà người sử dụng dịch vụ phải chịu. Công trình xử lý này cũng có thể mở rộng bằng cách xây dựng công trình xử lý cấp 2 nếu các tiêu chuẩn xả thải hay nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào thay đổi. 103. Một giải pháp quản lý nước thải có thể xem xét ở các thành phố duyên hải Việt Nam là xả nước thải đã xử lý sơ bộ ra biển qua cửa xả ngầm dưới biển. Nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Colomnia, Úc đều đang áp dụng phương pháp xả ra biển. Do Việt Nam chú trọng bảo vệ đa dạng sinh thái bờ biển, phát triển du lịch và nuôi trồng thủy hải sản ven bờ, cần nghiên cứu cụ thể để xác định được cách thức và địa điểm áp dụng công nghệ này. Cũng cần chỉnh sửa các tiêu chuẩn xả thải, trong đó quy định điều kiện cụ thể cho các cửa xả dưới biển. 57 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 104. Ở Việt Nam có một số nhà máy áp dụng công nghệ xử lý chi phí thấp như hệ thống chuỗi hồ sinh học ở Buôn Ma Thuột, Bình Hưng Hòa, bể lắng hai vỏ – bể lọc sinh học nhỏ giọt và hồ hoàn thiện ở Đà Lạt. Một số dự án đang thực hiện cũng áp dụng công nghệ chi phí thấp cho toàn bộ nhà máy hoặc trong giai đoạn đầu thực hiện dự án như hệ thống chuỗi hồ sinh học ở Thanh Hóa, hồ sục khí và bãi lọc trồng cây ở Quảng Bình, nhà máy xử lý sơ bộ kết hợp hóa chất tăng cường và bể lọc sinh học nhỏ giọt ở Bình Định, xử lý sơ cấp ở Sóc Trăng và Trà Vinh, hồ sục khí ở Châu Đốc, An Giang. Phân tích và Thảo luận 105. Một số yếu tố đã và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn công nghệ xử lý nước thải ở Việt Nam: ●● Trước đây trong giai đoạn thiết kế công trình xử lý chỉ chú trọng tuân thủ các tiêu chuẩn xả thải mà chưa quan tâm đến các yêu cầu của nguồn tiếp nhận nước hay tiềm năng sử dụng nước thải đã xử lý. Do vậy, các địa phương lựa chọn các công nghệ xử lý kỹ thuật cao và tốn kém, không chọn các giải pháp xử lý phù hợp hơn. ●● Quá chú trọng vấn đề tuân thủ tiêu chuẩn thải trong quá trình lập kế hoạch và thiết kế công trình khiến các địa phương xây dựng nhà máy xử lý có yêu cầu quá cao so với thực tế và lựa chọn công nghệ không phù hợp. Các nhà máy xử lý nước thải áp dụng công nghệ bùn hoạt tính thường lấy nồng độ BOD trong thiết kế là 200mg/l nhưng thực tế nồng độ BOD trong nước thải đầu vào dao động trong khoảng từ 31 đến 135mg/l, do vậy bị quá thừa và dẫn đến đầu tư không hiệu quả. ●● Chính quyền địa phương theo phân công được quyết định các vấn đề kỹ thuật nhưng thường chưa hiểu rõ các vấn đề này và do vậy, có thể ra quyết định không hiệu quả về mặt kinh tế. Ngoài ra, các chính quyền địa phương cũng có xu hướng xem xét và lựa chọn áp dụng các giải pháp mà các thành phố khác sử dụng, bất kể công nghệ đó có phù hợp với điều kiện của địa phương mình hay không. ●● Sẽ khó bố trí đủ diện tích đất để áp dụng các giải pháp xử lý chi phí thấp nếu dự án thoát nước và xử lý nước thải được triển khai khi chưa lập kế hoạch VSMT và không có tầm nhìn chiến lược về quy hoạch đô thị. Do không bố trí đủ đất để phát triển nhà máy xử lý nước thải sau này, chính quyền địa phương thường lựa chọn các giải pháp đòi hỏi diện tích đất ít nhằm giảm thiểu tác động kinh tế và xã hội đi kèm với hoạt động thu hồi đất, giải tỏa đất đai và tái định cư. ●● Chính quyền địa phương nhiều khi coi công nghệ xử lý mà mình áp dụng là biểu tượng về sự phát triển của địa phương. Một số thành phố cho rằng xử lý bằng giải pháp kỹ thuật cao cho thấy mức độ “hiện đại” của địa phương mình. Công nghệ đơn giản và phù hợp với điều kiện địa phương bị đánh giá là lạc hậu và không được lựa chọn do không phù hợp với “hình ảnh” thành phố. 106. Làm thế nào để Việt Nam lựa chọn đúng các công nghệ xử lý nước thải phù hợp hơn với điều kiện địa phương và khả năng trang trải chi phí vận hành – bảo dưỡng lâu dài? Để lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp, cần đánh giá các tiêu chí kỹ thuật chính trình bày dưới đây. Dựa trên kết quả đánh giá các giải pháp theo các tiêu chí này, ta có thể xếp thứ tự các giải pháp đó. ●● Yêu cầu về diện tích đất: Ở các đô thị cấp tỉnh, cân nhắc dẫn nước thải ra xử lý ở vùng ngoại ô, ngoài khu vực thành phố. Các khu vực này không gặp khó khăn về dân sinh sống, diện tích đất rộng hơn và chi phí đất rẻ hơn. Do các công nghệ chi phí thấp thường chiếm diện tích đất lớn, cần ước tính diện tích đất cần bố trí để phát triển nhà máy xử lý sau này trong quá trình lập kế hoạch VSMT đô thị. ●● Chi phí vận hành: Chi phí vận hành là một thông số quan trọng khác khi đánh giá công nghệ xử lý nước thải. Rõ ràng khi phân tích sẽ thấy các giải pháp kỹ thuật cao sẽ có chi phí vận hành – bảo dưỡng cao 58 báo cáo chính hơn. Chi phí vận hành – bảo dưỡng có ý nghĩa quan trọng đối với tính bền vững về tài chính khi vận hành công trình, do vậy đây là tiêu chí quan trọng khi lựa chọn công nghệ xử lý. ●● Chi phí đầu tư: Cần ước tính chi phí đầu tư dựa trên quy mô ban đầu của các giải pháp công nghệ. Để đánh giá các giải pháp xử lý, cần lập ma trận để xác định giá trị định lượng cho mỗi giải pháp. Từ đó lựa chọn công nghệ phù hợp nhất là công nghệ có chi phí thấp nhất trong khi vẫn đáp ứng được các yêu cầu về hiệu quả xử lý và có thể bố trí trên diện tích đất đã dành để xây nhà máy xử lý. ●● Xử lý phù hợp yêu cầu nước thải sau xử lý: Dựa vào tiêu chuẩn nước thải sau xử lý hiện hành, cần đánh giá các công nghệ xử lý đạt tiêu chuẩn, từ công nghệ lắng chất thải đến xử lý sinh học dính bám, từ xử lý nước thải bằng công nghệ sinh học truyền thống trong điều kiện nhân tạo đến xử lý trong điều kiện tự nhiên. Các quy định hiện hành về tiêu chuẩn nước thải sau xử lý đang hạn chế hoạt động này do các công nghệ đơn giản hơn công nghệ truyền thống khó đáp ứng được yêu cầu về giá trị thông số chất dinh dưỡng. 107. Quản lý nước thải phân tán là cách tiếp cận cho phép dễ áp dụng các công nghệ xử lý có chi phí thấp. Có thể xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nhỏ theo các giai đoạn khác nhau nhằm xử lý nguồn thải nhỏ. Các hệ thống này cần diện tích đất ít hơn và tiết kiệm chi phí đầu tư và vận hành mạng lưới thu gom cũng như nhà máy xử lý. 2.2.2. So sánh hệ thống thoát nước chung và riêng 108. Trong phần này, chúng tôi so sánh các khác biệt khi sử dụng hệ thống thoát nước chung và riêng ở Việt Nam (xem Bảng 2.1). Bảng 2.1 So sánh hệ thống thoát nước chung và riêng ở các đô thị Việt Nam Mô tả Hệ thống thoát nước chung Hệ thống thoát nước riêng Tỷ lệ thu gom nước thải ở Việt Nam • Nhà máy đang vận hành (công suất thiết kế) 92% 8% • Nhà máy đang và sẽ thi công (công suất thiết kế) 98% 2% Nồng độ BOD trong nước thải đầu vào (trung bình Trung bình 67 (thấp nhất 31, Trung bình 358 (thấp nhất hàng năm) cao nhất 135) mg/l 336, cao nhất 380) mg/l Nồng độ BOD trong nước thải đầu vào (trung bình) 53 mg/l 359 mg/l Số lượng nhà máy xử lý tiếp nhận nước thải • Nhà máy đang vận hành 13 4 • Nhà máy đang và sẽ thi công 28 3 Số lượng nhà máy áp dụng công nghệ bùn hoạt tính • Nhà máy đang vận hành 8 2 • Nhà máy đang và sẽ thi công 23 3 Số lượng nhà máy áp dụng công nghệ kỹ thuật thấp/ trung bình • Nhà máy đang vận hành 5 2 • Nhà máy đang và sẽ thi công 5 0 59 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Đánh giá hiệu quả hệ thống thoát nước 109. Hệ thống thoát nước chung là phương thức thu gom nước thải phổ biến ở Việt Nam. Hiện phương thức này vẫn tiếp tục được áp dụng trong các dự án thoát nước đang triển khai. Nguyên nhân là hệ thống này ít tốn kém hơn và dễ triển khai (có thể thực hiện với số lượng ống cống ít hơn, khi thi công ít ảnh hưởng đến dân sinh hơn). Ngoài ra hệ thống thoát nước chung thường sử dụng hệ thống cống thoát nước đã có làm tuyến cống cấp hai để thu gom nước thải, do vậy chỉ cần xây dựng thêm các giếng tràn tách nước mưa, tách nước thải và vận chuyển về nhà máy xử lý. Đến nay, việc xây dựng hệ thống thoát nước chung thường bỏ qua hợp phần đấu nối hộ gia đình, và các cấp chính quyền càng ưa thích loại hệ thống thoát nước này do dễ triển khai. 110. Nước mưa và nước thải thu gom chung trong một hệ thống cống khiến nước thải chảy về nhà máy xử lý có nồng độ hữu cơ rất thấp, nguyên nhân là: ●● Hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước chung thường sử dụng hệ thống bể tự hoại xử lý tại chỗ, loại bỏ khoảng 30-40% lượng BOD (Nguyễn V.A., 2007) trước khi xả vào hệ thống này. ●● Hệ thống thoát nước chung ở khu dân cư thường được xây dựng trên nền đất bằng phẳng, bằng cống hộp kín, có độ dốc ít, hay hoàn toàn bằng phẳng, có các chỗ nối hở dễ bị nước ngầm xâm nhập do mực nước ngầm cao và chất hữu cơ dễ bị phân hủy bởi các vi khuẩn trong cống và trong đất. ●● Theo thiết kế, ban đầu hệ thống thoát nước chung được xây dựng nhằm thu nước mưa chảy trên đường phố và các khu vực công cộng. ●● Nước thải tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung có nồng độ chất hữu cơ thấp, do đó có thể không cần xử lý hoặc chỉ cần xử lý đơn giản. 111. Các địa phương hầu như lựa chọn sử dụng hệ thống thoát nước chung do chi phí đầu tư xây dựng thấp hơn so với hệ thống thoát nước riêng. Người dân thường sinh sống dọc theo trục đường, với đường cấp thoát nước, điện, trong đó nước thải và nước mưa thường tiêu thoát cùng nhau để tiết kiệm chi phí. Hệ thống thoát nước riêng mới chỉ được xây dựng ở các khu đô thị mới theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, các khu vực mới này lại thường nằm ở ven đô, nên hệ thống thoát nước riêng thu gom nước thải từ khu đô thị mới lại nhập vào hệ thống thoát nước chung đã có để vận chuyển nước thải về nhà máy xử lý. 112. Hệ thống thoát nước riêng được thiết kế để thu gom và vận chuyển nước thải riêng rẽ, không lẫn nước mưa và nước chảy bề mặt. Hệ thống này có thể mang lại lợi ích đáng kể cho người sử dụng dịch vụ do không cần xây dựng bể tự hoại và hộ gia đình có thể đấu nối trực tiếp vào hệ thống đường cống kín, do vậy không bị tác động bởi rác thải hay nước mưa. Hệ thống này có thể loại bỏ tình trạng ô nhiễm mùi ra khu vực xung quanh. Nước thu gom và vận chuyển về nhà máy xử lý chỉ là nước thải sinh hoạt, do vậy có nồng độ chất hữu cơ cao. Trong hệ thống thoát nước riêng, lượng nước thu gom và bơm về ít hơn, do vậy công suất thiết kế của nhà máy xử lý thấp hơn. Về chi phí đầu tư, hệ thống thoát nước riêng tốn kém hơn so với hệ thống thoát nước chung do cần xây dựng ba hệ thống cống: cống thoát chính, cống thoát cấp hai (trên đường) và cấp ba (ở vỉa hè). Tuy nhiên chi phí đầu tư này mang lại các lợi ích nói trên. Không nên bỏ qua hệ thống thoát nước riêng khi lập kế hoạch VSMT, do lợi ích nó mang lại cho người sử dụng dịch vụ là rất lớn. 113. Hệ thống thoát nước riêng có thể thu gom hiệu quả nước thải có nồng độ chất ô nhiễm cao hơn bởi nó bắt buộc các hộ gia đình phải đấu nối trực tiếp, do đó không thu gom nước mưa và nước chảy bề mặt. Do vậy, lượng nước thu gom trong hệ thống này ít hơn nhiều so với trong hệ thống thoát nước chung. So với hệ thống thoát nước chung, các công trình trong hệ thống thoát nước riêng có đặc điểm khác biệt: mạng lưới thu gom có đường kính nhỏ hơn, trạm bơm nhỏ hơn, cống thoát nước chính có đường kính 60 báo cáo chính nhỏ hơn và nhà máy xử lý quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên tới nay ở Việt Nam mới chỉ áp dụng hệ thống thoát nước riêng ở 4 trong 17 hệ thống quản lý nước thải là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Cảnh Đồi và Nam Viên (hai hệ thống sau đều ở trong khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, thành phố Hồ Chí Minh). Nồng độ BOD trong nước thải đo ở nhà máy xử lý Đà Lạt và Buôn Ma Thuột cao hơn nhiều so với các nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung. Phân tích và Thảo luận 114. Nhận thức của cộng đồng về hiệu quả cải thiện sức khỏe và vệ sinh cá nhân của VSTM đô thị tốt là nhân tố khuyến khích cộng đồng tham gia thực hiện các công trình thu gom và xử lý nước thải. Nếu người dân hiểu được các lợi ích mà hoạt động đấu nối trực tiếp vào hệ thống thoát nước riêng mang lại (không sử dụng bể tự hoại, hệ thống cống thoát nước kín, không gây ô nhiễm mùi), họ sẽ tham gia tích cực. Tuy nhiên thường thì chính quyền địa phương lại ít nhận thức được giá trị mà các giải pháp “mềm” như các chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông mang lại và tập trung hơn vào các hoạt động “phần cứng” là phát triển hạ tầng. 115. Các hộ dân phải có cách nào đó thoát nước thải phát sinh trong nhà. Đây có lẽ là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy việc đầu tư xây dựng các công trình thoát nước ở khu vực sinh sống, đặc biệt là các khu vực có nền đất ít thấm nước và không còn nhiều đất. Nhu cầu cấp bách phải thoát nước thải khiến nhiều hộ dân đấu nối tùy tiện vào các ống cống thoát nước mưa, không được hướng dẫn và kiểm tra kỹ thuật dẫn đến tình trạng công trình đấu nối kém chất lượng và tác động tiêu cực đến hệ thống thoát nước chung. 116. Lợi ích mà người sử dụng dịch vụ được hưởng khác nhau tùy vào việc họ sử dụng hệ thống thoát nước nào. Người dân sử dụng hệ thống thoát nước chung hưởng lợi khi đấu nối hộ vào hệ thống thoát nước chung ở địa phương – thường là cống thoát nước mưa hiện có. Tuy nhiên tình trạng ô nhiễm mùi thì không được cải thiện, thậm chí còn hôi hơn do số lượng đấu nối hộ gia đình vào cống thoát nước công cộng nhiều hơn. Nếu trên hệ thống thoát nước chung có lắp đặt giếng tách để dẫn nước thải và nước mưa đợt đầu vào cống bao, do đó giảm nồng độ chất hữu cơ trong nước mưa thì tình trạng ô nhiễm mùi và ô nhiễm môi trường ở khu vực sông, kênh mương cuối nguồn sẽ được cải thiện. Chất lượng môi trường sẽ được cải thiện nhờ việc xử lý nước thải thu gom. 117. Hệ thống thoát nước riêng mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng dịch vụ thu gom và xử lý nước thải hơn; trong đó lợi ích lớn nhất là họ không cần xây dựng/sử dụng công trình xử lý tại chỗ (bể tự hoại) một khi đã đấu nối đường ống vệ sinh hộ gia đình vào hệ thống thoát nước riêng. Hộ gia đình đấu nối vào đường ống thoát nước công cộng qua hộp đấu nối. Công trình này cũng được sử dụng để bảo dưỡng cả đường ống vệ sinh trong nhà và cống thoát nước công cộng. Đây chính là lợi ích khác mà người sử dụng hệ thống thoát nước riêng được hưởng, vì hệ thống thoát nước riêng là mạng lưới đường ống kín hoàn toàn, được tính toán và thiết kế thủy lực để đạt tốc độ chảy tự làm sạch, ngăn lắng cặn, ít hoặc không phát sinh mùi hôi trong khu vực sử dụng hệ thống, thậm chí trong toàn bộ diện tích từ khu vực thu gom đến nhà máy xử lý nước thải. Do vậy, tình trạng ô nhiễm mùi ở khu vực xung quanh và khu vực sử dụng dịch vụ nói chung được cải thiện đáng kể. 118. Hệ thống thoát nước chung có nhiều điểm bất cập liên quan đến công tác thiết kế, thi công và vận hành – bảo dưỡng công trình. Tình trạng thu gom cả rác thải và ô nhiễm mùi ở các hố ga có thể khiến hệ thống hoạt động kém hiệu quả và người dân không hài lòng. Lưu lượng thấp trong mùa khô khiến chất rắn đọng lại trong cống, do đó phải có cơ chế vận hành – bảo dưỡng phù hợp. Trong khi đó, lưu lượng dòng chảy cao trong mùa mưa lại có thể khiến cống bị quá tải, gây ngập cống, trạm bơm và nhà máy xử lý nước thải. 61 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 119. Chi phí thường là yếu tố ảnh hưởng lớn và khiến các địa phương quyết định lựa chọn hệ thống thoát nước chung. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào yếu tố chi phí đầu tư thì khi đánh giá các hệ thống thoát nước sẽ bỏ qua các giá trị hữu hình và vô hình vốn là kết quả nổi trội của hệ thống thoát nước riêng. Ngoài ra còn có quan điểm sai lầm cho rằng chỉ hệ thống thoát nước riêng mới cần thực hiện đấu nối hộ gia đình, còn trong hệ thống thoát nước chung không cần thực hiện hoạt động này. Để thoát nước thải ngoài nhà, hộ gia đình phải đấu nối vào hệ thống thoát nước công cộng, dù là hệ thống thoát nước chung hay riêng. Nếu không, sẽ không thể dẫn nước thải về nhà máy xử lý. Do vậy, quan điểm cho rằng lựa chọn sử dụng hệ thống thoát nước chung sẽ giúp tránh được thực hiện đấu nối hộ gia đình là hoàn toàn sai lầm. 120. Khi cân nhắc lựa chọn sử dụng hệ thống thoát nước chung hay riêng, cần xem xét cả chi phí bể tự hoại, một hạng mục trong hệ thống thoát nước chung. Trung bình để xây dựng bể tự hoại và đấu nối vào cống thoát nước thành phố, mỗi gia đình mất 250 USD hay 55,6 USD/người (Nguyễn V.A. và cộng sự, 2012). Chi phí này chưa bao gồm phí thông hút bể tự hoại, thường là 34 -51 USD/hộ/5 năm hay 7,5 – 11,3 USD/người/5 năm (Nguyễn V.A. và cộng sự, 2012). Cần tính các chi phí này trong quá trình phân tích để lựa chọn hệ thống thu gom và xử lý nước thải đô thị. 121. Mục tiêu của hệ thống thoát nước chung và riêng được so sánh trong Bảng 2.2 dưới đây: Bảng 2.2 So sánh đặc điểm của hệ thống thoát nước chung và riêng Hệ thống thoát nước Hệ thống thoát Mô tả chung nước riêng Thu gom nước mưa Có Không Ít (80% lượng nước sạch Lượng nước thu gom Nhiều tiêu thụ) Có (Không tránh được Thu gom cả chất thải rắn Không hiện tượng này) Yêu cầu thực hiện đấu nối hộ gia đình Có Có Sử dụng bể tự hoại Có [1] Không nhất thiết Khả năng phát sinh mùi Cao Thấp Tiếp cận để bảo dưỡng Khó Tốt Chi phí đầu tư Trung bình Cao Chú thích: [1]Hệ thống thoát nước chung được thiết kế tốt có thể hoạt động hiệu quả mà không cần xử lý trước nước thải trong bể tự hoại. Tuy nhiên, các hệ thống thoát nước chung đang sử dụng ở các đô thị Việt Nam vận chuyển cả nước mưa và nước thải không được thiết kế phù hợp để tránh tình trạng lắng chất rắn và phát sinh mùi hôi. Do vậy các hệ thống này đòi hỏi các đối tượng thoát nước phải xử lý nước thải trong bể tự hoại trước khi xả vào mạng lưới thu gom. 2.2.3. Đấu nối hộ gia đình 122. Ước tính 60% hộ gia đình đô thị đấu nối vào hệ thống thoát nước công cộng. Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình ở mỗi thành phố khác nhau, tùy vào mật độ dân số và điều kiện địa chất vì đây là yếu tố quyết định liệu hộ dân đó có thể thoát nước thải tại chỗ bằng cách để nước ngấm vào đất hay không. Ví dụ ở Đà Nẵng, nền đất thấm tốt cho phép thoát nước thải do các hộ dân thải ra. Do vậy, tỷ lệ đấu nối hộ gia đình ở Đà Nẵng rất thấp (có phường chưa đến 10%), nồng độ BOD trung bình trong nước thải đầu vào tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung do vậy cũng thấp.. 62 báo cáo chính 123. Động lực để các hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước là để dẫn nước thải ra bên ngoài ngôi nhà. Khi điều kiện tự nhiên không cho phép thoát nước thải tại chỗ, như trường hợp của Hà Nội, Hải Phòng và Hồ Chí Minh, người dân phải tìm cách thoát nước thải ra ngoài nhà, thường là vào đường ống thoát nước mưa gần nhất lắp đặt ngay lề đường trước nhà. Do người dân thường thuê đơn vị khác thực hiện đấu nối vào hệ thống thoát nước mà không xin phép và không được cấp có thẩm quyền kiểm tra nên không kiểm soát được chất lượng công trình đấu nối. 124. Đấu nối hộ gia đình là hoạt động quan trọng trong bất kỳ hệ thống quản lý nước thải nào, dù là hệ thống thoát nước chung hay riêng vì hộ gia đình là nguồn cung cấp hầu hết tải lượng nước thải và các chất ô nhiễm cho hệ thống xử lý. Ở Việt Nam, hệ thống thoát nước chung được sử dụng phổ biến nhất. Trong hệ thống này, nồng độ chất hữu cơ trung bình trong nước thải đầu vào đo được ở các nhà máy xử lý là rất thấp, điều này cho thấy hoạt động đấu nối hộ gia đình chưa được thực hiện hiệu quả và hệ thống này thu gom lượng lớn nước mưa. 125. Kinh nghiệm đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước riêng ở Buôn Ma Thuột cho thấy các đường ống vệ sinh hộ gia đình thường bị lắp sai kỹ thuật, không có phần ống xi-phông ngăn nước chảy ngược, ngăn phát sinh mùi và lối thoát khí. Để thực hiện đấu nối đúng kỹ thuật, gia đình cần trả chi phí để khắc phục tình trạng lắp đặt sai hệ thống đường ống trong nhà. Hộ gia đình cần đấu nối tới công trình chuyển tiếp giữa hệ thống thoát nước trong và ngoài nhà. Thông thường bộ phận đầu tiên của hệ thống thoát nước công cộng là hộp kỹ thuật (D300) ở trước mỗi nhà. Hộ gia đình sẽ đấu nối đường ống thoát nước của mình trực tiếp vào hộp này; hộp đấu nối này cũng rất thuận tiện để bảo dưỡng mạng lưới đường ống thoát nước trong và ngoài nhà. 126. Lâu nay vai trò của đấu nối hộ gia đình còn chưa được đánh giá đúng. Hoạt động đấu nối đường ống vệ sinh hộ gia đình vào hệ thống thoát nước công cộng thường bị bỏ qua trong khi thực hiện dự án ở Việt Nam. Một số thành phố lớn đã thực hiện các chương trình đấu nối hộ gia đình, bao gồm việc xây dựng mạng lưới đường ống cấp ba ở vỉa hè để đấu nối hộ gia đình.Hệ thống thoát nước chung chỉ hoạt động hiệu quả nếu tỷ lệ đấu nối hộ gia đình vào hệ thống này cao, nhờ đó tải lượng nước thải và các chất ô nhiễm tăng lên. 2.2.4. Tiêu chuẩn nước thải sau xử lý 127. Dù trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2011, Việt Nam đã chỉnh sửa 4 lần tiêu chuẩn nước thải sau xử lý nhưng mục tiêu chính của các lần chỉnh sửa này không phải để bảo vệ chất lượng nguồn tiếp nhận nước. Hiện nay tiêu chuẩn nước thải sau xử lý của Việt Nam quy định các thông số chất lượng nước loại A (nước thải sau xử lý xả vào nguồn nước phục vụ hoạt động cấp nước sinh hoạt) và loại B (nước thải sau xử lý xả vào nguồn nước không phục vụ hoạt động cấp nước sinh hoạt) (xem Hình 2.4). Lý giải về phương pháp xây dựng các tiêu chuẩn trên chưa rõ ràng và không liên quan đến việc phân tích tác động của các tiêu chuẩn nước thải sau xử lý đối với chất lượng nước mặt. 63 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hình 2.4 Giá trị tối đa các thông số ô nhiễm trong các quy chuẩn/tiêu chuẩn nước thải của Việt Nam ban hành trong giai đoạn 1995 – 2011 Giá trị tối đa, BOD Giá trị tối đa, COD 60 160 140 50 120 40 100 30 80 60 20 40 10 20 0 0 A B A B A B A B A B A B A B A B TCVN 5945:1995 TCVN 5945:2005 QCVN 24:2009 QCVN 40:2011 TCVN 5945:1995 TCVN 5945:2005 QCVN 24:2009 QCVN 40:2011 Giá trị tối đa, NH4-N Giá trị tối đa, T-N 70 12 60 10 50 8 40 6 30 4 20 2 10 0 0 A B A B A B A B A B A B A B A B TCVN 5945:1995 TCVN 5945:2005 QCVN 24:2009 QCVN 40:2011 TCVN 5945:1995 TCVN 5945:2005 QCVN 24:2009 QCVN 40:2011 2.2.5. Thu hồi chi phí Phân tích hiệu quả 128. Thu hồi chi phí, ít nhất là chi phí vận hành và bảo dưỡng, là mục tiêu chính để đảm bảo tính bền vững lâu dài của các dự án VSMT đô thị. Tuy nhiên ở Việt Nam còn nhiều trở ngại khiến các công trình này chưa thu hồi được đầy đủ chi phí. Hình 2.5 và Hình 2.6 so sánh giá nước sạch và phí nước thải ở một số thành phố và quốc gia. Các quốc gia phát triển rõ ràng có biểu phí cao hơn, tỷ lệ thu hồi chi phí cao hơn và chi phí vận hành – bảo dưỡng cũng cao hơn. Hình 2.6 cho thấy giá nước sạch và phí nước thải ở các nước phát triển khá giống nhau. Dự kiến xu hướng này cũng sẽ xảy ra ở Việt Nam, khi đó phí nước thải trong tương lai sẽ phải cao hơn để đảm bảo trang trải được chi phí liên quan. 64 báo cáo chính Hình 2.5 Giá nước sạch và nước thải năm 2012 của một số thành phố 10 10 99 88 7 7 6 USD/m 3 6 USD/m 3 5 5 4 4 3 3 2 2 1 1 Hanoi Phorm Penh Davao Bandung Manila Chengdu Aires Jakarta Beijing Busan Ulsan StPetersburg Konya Singapore Bogota Essen Fukuoka Aarhus Gothenburg Glascow Minh Tijuana Hanoi Phorm Penh Davao Bandung Manila Chengdu Aires Jakarta Beijing Busan Ulsan StPetersburg Konya Singapore Bogota Essen Fukuoka Aarhus Gothenburg Glascow Minh Tijuana Buenos ChiChi Buenos Ho Ho Nguồn: Global Water Intelligence và Ngân hàng Thế giới, 2012 Hình 2.6 So sánh mức giá nước sạch và nước thải trung bình của một số nước 9 98 Phí nước thải, USD/m3 87 76 Phí nước thải, USD/m3 Giá nước cấp, USD/m 3 5 6 Giá nước cấp, USD/m 3 4 USD/m 3 5 3 4 USD/m 3 2 3 1 2 0 1 str Au k UK A em Gre a y Ca e C e da ada n y th y ea o a a n ke Au rk mar Gr lia trali in di nc xic pa apa US 0 an ma or Ch In Tu S Tur an Fra n e K a J a s a n M nm De ut keu y UK A n a ico a a ro re in di c US na ex Ch In Ko Ja Fr M h De So Nguồn: Global Water Intelligence và Ngân hàng Thế giới, 2013 129. Hiện nay theo báo cáo của các dự án VSMT đô thị có đầy đủ số liệu về chi phí và doanh thu, chúng tôi thấy phí dịch vụ chỉ trang trải được 20-30% chi phí vận hành – bảo dưỡng thực tế18. Chính quyền địa phương bù đắp phần thiếu hụt khi công ty vận hành hệ thống đệ trình xin phê duyệt kế hoạch và ngân sách hoạt động hàng năm. Dường như chính quyền địa phương coi khoản hỗ trợ này là phần đóng góp của nhà nước cho các đơn vị quốc doanh và không muốn hoặc không sẵn sàng tăng phí nước thải cao hơn, ngay cả khi nhận thức cộng đồng được cải thiện và người dân hài lòng với dịch vụ nước thải. 130. Thu hồi chi phí có nghĩa là thiết kế hệ thống phù hợp và thu phí sử dụng dịch vụ phù hợp. Mặc dù vậy, nhiều dự án VSMT được xây dựng trên cơ sở vốn có thể huy động được chứ chưa xem xét đến chi phí Mức thu hồi chi phí của Công ty cấp thoát nước Lâm Đồng (thành phố Đà Lạt) là 17,6% và của Công ty quản lý đô thị và 18 môi trường ở thành phố Buôn Ma Thuột là 28,3 % 65 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam vận hành trong toàn bộ thời gian dự án. Các dự án này sử dụng vốn vay ưu đãi dài hạn mà Chính phủ sau này phải trả, và thường áp dụng các giải pháp xử lý phức tạp, do vậy có chi phí vận hành cao. Hầu hết chính quyền địa phương cho rằng các hiệp định vay là khoản đầu tư miễn phí, ít nhất trong thời gian thực hiện đầu tư. Sau khi thi công xong, công trình VSMT sẽ phải hoạt động lâu dài hơn thời gian đầu tư, hy vọng sẽ dài hơn cả thời gian trả vốn vay. Vấn đề ở đây là chính quyền chưa nhận thức được rằng cho đến khi kết thúc dự án, chi phí vận hành tác động đáng kể đến ngân sách địa phương, trong khi ở nhiều trường hợp, chi phí này còn chưa được đưa vào ngân sách dự kiến. 131. Chính quyền địa phương không muốn tăng phí cũng là một yếu tố cản trở việc thu hồi chi phí hiệu quả. Ở Buôn Ma Thuột, kết quả khảo sát cho thấy nhóm những người sẽ sử dụng dịch vụ trong tương lai sẵn sàng trả phí dịch vụ ở mức nhất định. Tuy nhiên, khi công trình đi vào hoạt động, chính quyền địa phương không phê duyệt biểu phí đề xuất dựa trên kết quả khảo sát về sự sẵn sàng trả phí, và quyết định dùng ngân sách địa phương để bù đắp phần thâm hụt khi vận hành hệ thống quản lý nước thải. Điều thuận lợi là Buôn Ma Thuột áp dụng công nghệ xử lý nước thải không phức tạp, do vậy chi phí vận hành – bảo dưỡng ở mức vừa phải, mặc dù vậy chính quyền vẫn phải hỗ trợ 70% tổng chi phí hoạt động hàng năm của công trình. Phân tích và Thảo luận 132. Phần dưới đây trình bày các thách thức Việt Nam đang đối mặt khi cố gắng cải thiện hiệu quả thu hồi chi phí hoạt động các hệ thống quản lý nước thải đô thị. • Người sử dụng nhận thức về lợi ích dịch vụ mang lại. Nếu người sử dụng nhận thức được lợi ích mà hệ thống quản lý nước thải và hoạt động quản lý bùn thải mang lại như môi trường sống, kênh mương/ sông ngòi được cải thiện thì họ sẽ sẵn sàng đóng phí để hỗ trợ vận hành hệ thống này. Cần thực hiện chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông để người dân hiểu được các vấn đề VSMT. Khách hàng, người nắm được đầy đủ thông tin, có hiểu biết về các vấn đề VSMT chính là yếu tố giúp cải thiện hiệu quả thu hồi chi phí vì họ sẵn sàng trả phí theo lợi ích mà dịch vụ mang lại. • Sẵn sàng tính giá dịch vụ nước thải. Nếu nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thu hồi chi phí đối với khả năng bền vững tài chính lâu dài của công trình, chính quyền địa phương sẽ sẵn sàng tăng giá dịch vụ để cải thiện hiệu quả thu hồi chi phí, bớt phụ thuộc vào hỗ trợ từ ngân sách địa phương. Chính quyền tham gia tích cực bằng cách ban hành biểu giá chính là yếu tố giúp cải thiện hiệu quả thu hồi chi phí. Tình trạng trợ cấp hiện nay xuất phát từ truyền thống nhà nước trợ cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh và các phòng ban cấp tỉnh. Đây chính là một trở ngại đối với việc thu hồi chi phí. • Lựa chọn công nghệ xử lý nước thải không phù hợp có thể dẫn đến chi phí vận hành công trình cao và chính quyền địa phương khó thu hồi được. 2.2.6 Quản lý phân bùn từ công trình vệ sinh 133. Bể tự hoại là công trình cơ bản trong hạ tầng VSMT đô thị của Việt Nam. Đây là công trình xử lý nước thải chính của hơn 77% hộ gia đình ở các thành phố và thị xã cấp tỉnh, 40% hộ gia đình ở thị trấn huyện và 19% hộ gia đình ở khu vực nông thôn (WHO/UNICEF, 2008, và ADB, 2006). Hầu hết các bể tự hoại trong các gia đình ở khu vực đô thị Việt Nam chỉ tiếp nhận nước đen. Nước xám thải ra từ bếp, nhà tắm, chậu rửa thường được xả trực tiếp vào hệ thoát nước của thành phố mà không qua bể tự hoại. Bể tự hoại đóng vai trò quan trọng trong các khu vực đô thị sử dụng hệ thống thoát nước chung. Tuy nhiên, bùn thải từ bể tự hoại hầu như chưa được thông hút thường xuyên. Tình trạng đổ thải bừa bãi bùn thải nhà vệ sinh còn xảy ra phổ biến ở các thành phố ở Việt Nam. 66 báo cáo chính 134. Khối tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thông hút, thu gom và xử lý phân bùn nhà vệ sinh do các doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể thu gom một phần lượng phân bùn phát sinh. Tuy nhiên, chính quyền thành phố chưa kiểm soát được hoạt động này, cũng như chưa khuyến khích được các hộ gia đình thông hút bể tự hoại thường xuyên. Ngoài ra, do bể tự hoại thường nằm dưới nền nhà, các gia đình không muốn lật sàn nhà lên và trả tiền dịch vụ thông hút bể tự hoại, trừ khi bể bị tắc và tràn ra ngoài. Để giảm chi phí vận hành và do thiếu công trình xử lý phân bùn, hầu hết đơn vị thông hút bể tự hoại đều đổ trái phép phân bùn khiến môi trường thành phố bị ô nhiễm nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng. 135. Hiện Việt Nam đã thực hiện một số giải pháp để cải thiện công tác quản lý phân bùn. Ở Hải Phòng, việc thông hút phân bùn định kỳ được Công ty Thoát nước Hải Phòng thực hiện miễn phí cho các hộ dân nhờ sử dụng phí nước thải (15% hóa đơn nước sạch) để trang trải chi phí này. Một số thành phố trong Chương trình Quản lý nước thải và rác thải Việt Nam – Đức (vốn của KfW và Cơ quan Hợp tác Kinh tế Thụy Sỹ - SECO) dự kiến sẽ cung cấp dịch vụ thông hút bể tự hoại miễn phí cho các hộ gia đình bằng cách tăng dần phí nước thải. 136. Có thể thu hồi chi phí thông hút và vận chuyển bùn bể tự hoại (không tính chi phí xử lý phân bùn) bằng cách ban hành biểu phí cạnh tranh. Yếu tố quan trọng để thu hồi được chi phí là lựa chọn công nghệ thu gom, xử lý phù hợp, tái sử dụng và xây dựng giá bán sản phẩm tái chế như phân vi sinh phù hợp. Doanh nghiệp tư nhân tham gia quản lý phân bùn vẫn có thể kinh doanh có lãi trong khi thực hiện đúng quy định pháp luật nếu chính quyền có thể xây dựng được các quy định hiệu quả và phù hợp hơn. Bên cạnh việc thanh toán trực tiếp mỗi lần tiến hành thông hút, người dân cũng có thể thanh toán gián tiếp qua hóa đơn nước sạch (phí quản lý phân bùn được tính là một phần phí nước thải) nếu công ty thực hiện thông hút định kỳ và chính quyền thành phố kiểm soát hoạt động này. Nếu thực hiện các hoạt động khác ngoài thông hút định kỳ, người dân phải trả thêm tiền cho đơn vị cung cấp dịch vụ. 2.2.7 Sơ đồ thoát nước tập trung và phân tán Đánh giá 137. Sơ đồ thoát nước và xử lý nước thải phân tán phù hợp với các khu vực ven đô, các khu vực có mật độ dân cư thưa, đang ngày càng được áp dụng phổ biến. Trong khi phương thức thu gom và xử lý nước thải tập trung hay được áp dụng ở khu vực nội thành đông đúc, hệ thống quản lý nước thải phân tán tỏ ra phù hợp đối với các khu vực chưa xây dựng được hệ thống tập trung. Trong Nghiên cứu “Xây dựng Chiến lược thống nhất về VSMT và Kế hoạch hành động – U3SAP”, Bộ Xây dựng đã đề xuất thực hiện các giải pháp vệ sinh phân tán, chi phí thấp ở Việt Nam, coi đây là giải pháp tiềm năng xử lý nước thải cho các cộng đồng dân cư thưa ở khu vực đô thị và nông thôn. 138. Ước tính hàng nghìn hệ thống xử lý nước thải phân tán đã được xây dựng cho các tòa văn phòng, khách sạn, nhà máy, bệnh viện, cộng đồng dân cư mới và làng nghề ở Việt Nam. Một số văn bản hướng dẫn kỹ thuật về công trình vệ sinh phân tán đang được Bộ Xây dựng và Bộ Y tế soạn thảo. Công trình vệ sinh phân tán, chi phí thấp được sử dụng ở thị trấn Chợ Rã, Chợ Mới (Bắc Kạn), Nước Hai (Cao Bằng), Minh Đức (Hải Phòng), An Bài (Thái Bình) trong khuôn khổ Chương trình Nước và vệ sinh cho các thị trấn nhỏ của Chính phủ Phần Lan. Một số dự án trình diễn đã được các cộng đồng địa phương thực hiện với hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của các nhà tài trợ, như hệ thống quản lý nước thải phân tán ở làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội (YWAM NGO và Bộ TN&MT, 2007), hệ thống xử lý nước thải phân tán cho nhóm hộ gia đình ở thôn Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội (EAST Việt Nam – ADB, 2012), làng Viêm Xá, thành phố Bắc Ninh, trường học ở thành phố Vinh và chợ ở thành phố Cần Thơ (Chương trình Quản lý nước thải và rác thải, GIZ, 2010-2013), v.v. 67 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Phân tích và Thảo luận 139. Hệ thống vệ sinh phân tán tỏ ra phù hợp hơn với khu vực ven đô nơi các cộng đồng sinh sống tách biệt hơn và mật độ dân cư thưa hơn. Sơ đồ vệ sinh phân tán mang lại các lợi ích quan trọng như xử lý nước thải và áp dụng các biện pháp kiểm soát ô nhiễm gần nguồn thải. Bằng cách xử lý các vấn đề ô nhiễm ngay gần nguồn phát thải, hệ thống này giúp tiết kiệm chi phí xây dựng các tuyến cống thu gom về nhà máy xử lý nước thải tập trung, do vậy khả năng trang trải chi phí của hệ thống xử lý phân tán cao hơn. 140. Một lợi thế khác của việc áp dụng hệ thống phân tán ở các nước đang phát triển là hệ thống này hoạt động dựa vào cộng đồng, trong đó người sử dụng dịch vụ tham gia ngay từ giai đoạn lập kế hoạch phát triển hệ thống hạ tầng. Kinh nghiệm từ nhiều dự án phát triển hạ tầng trong khu vực cho thấy hệ thống thu gom và xử lý chất thải tập trung có thể thất bại do người dân “không sẵn sàng đấu nối” và “không sẵn sàng chi trả”. Sự tham gia của địa phương vào quá trình quản lý nước thải phân tán đảm bảo tài chính cho hệ thống. Người sử dụng dịch vụ tham gia tích cực và chính quyền địa phương cam kết mạnh mẽ hơn. Ngoài vấn đề lựa chọn công nghệ phù hợp, đây là các điều kiện cần thiết đảm bảo công trình hoạt động bền vững. Hiệu quả của hệ thống thoát nước còn phụ thuộc vào việc bố trí nguồn lực để vận hành bền vững. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy một số hệ thống thoát nước không hiệu quả là do không bố trí đủ nguồn lực bền vững và cán bộ chưa đủ năng lực kỹ thuật để vận hành công trình. 141. Vấn đề không phải là chỉ chọn một trong hai hệ thống xử lý (tập trung hay phân tán). Mỗi thành phố đều có thể dụng cả hai hệ thống này. Quan trọng là trong quá trình lập kế hoạch phát triển VSMT thành phố cần đánh giá theo các tiêu chí xem khu vực nào nên áp dụng hệ thống phân tán/ tập trung. Sau đó, cần thực hiện nghiên cứu khả thi để phân tích kinh tế và tài chính trước khi xác định công nghệ áp dụng. Hệ thống xử lý phân tán phù hợp để áp dụng ở các khu vực đô thị mà hệ thống xử lý tập trung không hiệu quả về mặt kinh tế. Tuy nhiên cần phổ biến các yêu cầu lập kế hoạch, thiết kế và vận hành của hệ thống xử lý phân tán cho các bên liên quan bằng cách vận động, nâng cao hiểu biết kỹ thuật và xây dựng năng lực. 142. Các dự án phát triển hệ thống xử lý nước thải tập trung và phân tán có chung các khó khăn trong: lựa chọn công nghệ, chất lượng thiết kế và thi công công trình, quy trình thẩm định, tỷ lệ đấu nối hộ gia đình thấp, tài chính bền vững, năng lực vận hành - bảo trì, giám sát, theo dõi và kiểm soát của địa phương trong quá trình triển khai dự án. Yếu tố mang lại thành công cho hệ thống quản lý phân tán liên quan đến công tác lập kế hoạch và quyết định, thiết kế hạ tầng và cơ chế quản lý hoạt động vận hành – bảo trì. Sự tham gia của cộng đồng, nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực cho địa phương cũng đóng vai trò quan trọng đảm bảo thực hiện dự án thành công. 3. Kết luận và Kiến nghị 143. So với kinh nghiệm và thực tế ở nhiều nước, thoát nước và xử lý nước thải là lĩnh vực còn mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy Việt Nam có cơ hội xem xét các phương thức tiếp cận mới, nhằm cải thiện khả năng trang trải và tính bền vững của công trình thoát nước và xử lý nước thải. Dưới đây là các nguyên tắc chính cần xem xét trong quá trình ra quyết định của các cấp lãnh đạo và trong quá trình lập kế hoạch: 3.1. Ý chí chính trị, cải cách thể chế và cải thiện khung chính sách pháp luật Chính quyền trung ương và địa phương cần đặt cải thiện vệ sinh cá nhân và VSMT là mục tiêu chính, đưa vào các chương trình hành động ưu tiên 144. Chính phủ cần tiếp tục cam kết cải thiện VSMT, đặc biệt là VSMT đô thị và đưa nội dung này vào các chương trình công tác ở trung ương và địa phương. Để thực hiện điều đó, cần thực hiện các chương trình 68 báo cáo chính về thay đổi hành vi cá nhân để khuyến khích người dân đấu nối vào hệ thống thoát nước và trả phí dịch vụ; tăng cường khả năng thu hồi chi phí và cung cấp dịch vụ cho các đơn vị công ích, xây dựng chiến lược VSMT thành phố và lựa chọn các công nghệ đảm bảo tăng phạm vi sử dụng dịch vụ quản lý nước thải và phân bùn nhanh chóng; và xây dựng chính sách ở trung ương và địa phương hướng đến cải thiện vệ sinh cá nhân và nâng cao hiệu quả quản lý VSMT. Thiết lập đơn vị giám sát, áp dụng Hợp đồng Quản lý vận hành giữa chính quyền đô thị và đơn vị cung cấp dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải 145. Cần thành lập đơn vị giám sát với thành phần là đại diện của chính quyền địa phương (UBND, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường) và cộng đồng. Cơ quan này sẽ phê duyệt đơn giá và biểu giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải. Cần làm rõ quyền làm chủ tài sản hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, xây dựng khung giá dịch vụ quản lý nước thải trên cơ sở đánh giá điều kiện của địa phương và hiện trạng phát triển hệ thống trên địa bàn. Tăng cường hiệu quả phối hợp của các cơ quan trung ương 146. Các cơ quan trung ương cần phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình xây dựng khung chính sách pháp luật về quản lý môi trường và nước thải. Để thực hiện điều này, các đơn vị có liên quan ở các cấp như Chính phủ, doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị vận hành, cộng đồng và nhà tài trợ cần thường xuyên trao đổi với nhau. Nếu không khắc phục được các hạn chế trong khung chính sách pháp luật và năng lực thể chế, không thể giải quyết được các vấn đề nóng trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải cũng như không thể vận hành công trình bền vững. Các ban ngành cần phối hợp chặt chẽ hơn để đảm bảo hiệu quả của chương trình. 147. Thiết lập quan hệ Hợp đồng Quản lý vận hành giữa chính quyền địa phương và đơn vị cung cấp dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải thay vì dựa trên Kế hoạch hoạt động năm và cơ chế giao việc hiện nay19. Trong thời gian vận hành và bảo dưỡng, năng lực của đơn vị cung cấp dịch vụ là yếu tố đảm bảo dự án thực hiện hiệu quả với các nguồn lực huy động được. Tuy nhiên, cơ chế chính quyền địa phương “giao việc” cho đơn vị cung cấp dịch vụ hiện nay đang làm giảm hiệu quả thu hồi chi phí. Cần áp dụng hợp đồng quản lý - vận hành với doanh nghiệp quốc doanh hoặc doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp này vận hành toàn bộ hệ thống hay một phần hệ thống. 3.2. Quản lý tổng hợp, đầu tư ưu tiên và lập kế hoạch thực hiện dự án Áp dụng nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý theo lưu vực sông trong lĩnh vực VSMT đô thị 148. Cần áp dụng nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý theo lưu vực sông khi phối hợp hoạt động giữa các ban ngành và phân công trách nhiệm quản lý hoạt động VSMT. Khi sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành hay xây dựng chính sách mới cần căn cứ vào Luật Bảo vệ môi trường 2005 và Luật Tài nguyên nước 2012 để đảm bảo quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Cần xây dựng các quy định VSMT đô thị rõ ràng, có xem xét đến sự tham gia cung cấp dịch vụ của nhiều thành phần kinh tế, chú trọng quản lý chất lượng nước theo lưu vực sông và cải thiện hiệu quả giám sát tập trung hoạt động VSMT đô thị. 149. Cách tiếp cận tổng hợp nhằm kết hợp các hoạt động cấp nước, vệ sinh cá nhân và VSMT cho phép dự án thu được những kết quả tốt và bền vững hơn. Để làm được điều này cần xây dựng cơ chế phối hợp Xem thêm trong phần Mô hình quản lý nước thải đô thị ở Chương 1. 19 69 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam và tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị quản lý tài nguyên nước và bảo vệ môi trường, công ty cấp nước và VSMT, các tổ chức cộng đồng ở lưu vực sông trong quá trình lập kế hoạch và triển khai dự án. Xây dựng Chiến lược quốc gia và Chương trình mục tiêu quốc gia về VSMT đô thị, trong đó có nêu các ưu tiên đầu tư 150. Cần xây dựng Chiến lược quốc gia và Chương trình mục tiêu quốc gia về VSMT đô thị và xác định khung đầu tư. Chương trình và Chiến lược này sẽ là cơ sở để xác định các nội dung ưu tiên, nâng cao năng lực kỹ thuật và thể chế, xây dựng cơ chế tài chính để huy động và kết hợp các nguồn vốn khác nhau nhằm thực hiện các ưu tiên này. Chương trình quốc gia sẽ huy động và phối hợp các nguồn lực và hành động của chính phủ, chính quyền địa phương, nhà tài trợ và khối ngoài quốc doanh, bao gồm các doanh nghiệp tư nhân. Trong Chiến lược và Chương trình quốc gia cần áp dụng cách tiếp cận đảm bảo xác định đối tượng đầu tư phù hợp hơn để khắc phục được các vấn đề môi trường và sức khỏe cộng đồng và đưa ra kế hoạch đầu tư thích hợp. Xây dựng chiến lược VSMT ở quy mô toàn thành phố và lưu vực sông 151. Các kế hoạch phát triển VSMT cần dựa trên cách tiếp cận chiến lược VSMT cho toàn thành phố hoặc lưu vực sông. Chiến lược VSMT cần gắn kết các yếu tố xã hội, kỹ thuật, thể chế và kinh tế để đảm bảo việc cung cấp dịch vụ VSMT được bền vững cho tất cả các đối tượng trong cộng đồng đô thị. Kế hoạch VSMT cần xem xét hiệu quả hoạt động của các giải pháp công nghệ khác nhau và các phương thức cung cấp dịch vụ để nâng cao hiệu quả chương trình, cần áp dụng cách tiếp cận chiến lược cả về công nghệ và hệ thống công trình để đảm bảo phù hợp với điều kiện và khả năng trang trải của từng khu vực cụ thể (khu vực đông dân cư, đã phát triển hay mới phát triển, ở thành phố lớn hay nhỏ). Lập kế hoạch phù hợp sẽ tránh được tình trạng đầu tư phát triển hệ thống VSMT không hiệu Hình 3.1 Hệ thống xử lý nước thải theo quy mô quả - không bền vững về tài chính hay quy mô quá nhỏ, phân tán cho tòa nhà chung cư, văn phòng không đáp ứng được nhu cầu và cần nâng cấp sau này. Khi lập kế hoạch phát triển VSMT, cần lưu ý đáp ứng nguyên tắc thu hồi chi phí và quy định vai trò, trách nhiệm cụ thể cho các bên. 152. Khi lựa chọn công nghệ và thiết kế dự án cần tính đến toàn bộ chi phí trong vòng đời dự án. Cần khuyến khích cán bộ lãnh đạo các cấp tham gia lựa chọn công nghệ và thiết kế dự án để đảm bảo dự án có hiệu quả kinh tế - tài chính và chi phí vừa phải. Đấu nối hộ gia đình, xây dựng mạng lưới thoát nước mưa và nước thải, xử lý nước thải và tái sử dụng nước thải và bùn thải sau xử lý cần được xem xét trong mối tương quan Ảnh: Nguyễn V. A., 2012 với nhau. 3.3. Quản lý nước thải: sơ đồ tập trung và phân tán, hệ thống thoát nước chung và riêng; Vai trò của đấu nối hộ gia đình Lựa chọn sơ đồ thoát nước và xử lý nước thải phân tán hay tập trung tùy theo điều kiện của địa phương 153. Hệ thống quản lý nước thải tập trung không phải là giải pháp duy nhất giải quyết được tất cả các vấn đề VSMT của Việt Nam. Hệ thống quản lý phân tán nên được xem xét ở cả các khu vực nội đô mà hệ 70 báo cáo chính thống quản lý tập trung không mang lại hiệu quả kinh tế. Theo thời gian, các hệ thống phân tán này có thể mở rộng và trở thành một phần của hệ thống thu gom và xử lý tập trung khi mật độ dân số tăng lên. Tuy nhiên, cần đảm bảo các hệ thống quản lý nước thải phân tán thân thiện với môi trường và bền vững về tổ chức và tài chính. Chiến lược phát triển VSMT cho toàn thành phố trong giai đoạn quy hoạch tổng thể cần đưa ra kế hoạch phát triển hệ thống tập trung và phân tán theo từng giai đoạn có xem xét nhu cầu của cộng đồng thu nhập thấp. Hệ thống quản lý tập trung cũng sẽ giúp mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ VSMT nhanh chóng hơn. Khi thiết kế cần cân nhắc tác động của hệ thống thoát nước chung và/hoặc riêng 154. Trong quá trình lập kế hoạch phát triển VSMT, Hình 3.2 Đấu nối thiết bị vệ sinh hộ gia đình cần đánh giá tính kinh tế của hệ thống thoát nước vào HTTN riêng chung và riêng. Tiếp tục sử dụng và cải thiện hệ thống thoát nước chung tại các khu vực đông dân đã hình thành từ lâu và cân nhắc xây dựng hệ thống thoát nước riêng ở các khu vực đô thị mới và các đô thị cấp tỉnh là cách tiếp cận phù hợp. Ngoài ra cũng cần xem xét các giải pháp trung gian hay bổ sung thêm các công trình khác để tách nước mưa vào hệ thống thoát nước chung. Trong quá trình thiết kế hệ thống cần phân tích lượng mưa theo mùa. 155. Các dự án phát triển VSMT đô thị sử dụng hệ thống thoát nước chung phải xem xét các vấn đề quan trọng như quản lý phân bùn, đấu nối hộ gia đình và nâng cao nhận thức cộng đồng. Nâng cao nhận thức còn có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn rác trôi vào hệ thống thoát nước. Hầu hết các đô thị Việt Nam Nguồn: BMT UMESC, 2009 cần nâng cấp hệ thống thoát nước chung, đảm bảo có độ dốc thích hợp và chống tình trạng rác chảy vào đường cống để hệ thống hoạt động hiệu quả. Tại một số thành phố có thể xây dựng công trình lưu trữ tạm thời khi có mưa lớn, sau đó xả có kiểm soát vào công trình xử lý nước thải. Có thể kiểm soát tình trạng nước xâm nhập vào mạng lưới bằng cách áp dụng các giải pháp sáng tạo như giảm diện tích mặt phủ không thấm được trong thành phố, xây dựng các dải đệm xanh thoát nước mưa, các bể chứa nước mưa, đầm nước và vùng đệm dọc sông. 156. Đối với các khu vực đô thị cần cải thiện hệ thống thoát nước chung dần dần, phân kỳ xây dựng nhà máy xử lý nước thải. Cần phân kỳ đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải theo tiến độ mở rộng phạm vi mạng lưới thoát nước và đấu nối hộ gia đình. Có thể thiết kế công trình dạng modun để có thể bổ sung modun mới trong từng giai đoạn phát triển khác nhau. Như vậy, trong giai đoạn đầu tiên chỉ cần xây dựng nhà máy xử lý áp dụng công nghệ có hiệu quả về mặt chi phí như hồ sinh học hoặc bể lắng sơ cấp, đặc biệt khi nhà máy tiếp nhận nước thải có nồng độ chất ô nhiễm thấp từ hệ thống thoát nước chung. 157. Cần thực hiện nghiên cứu toàn diện công tác thiết kế hệ thống thoát nước chung có lắp đặt hố ga tiếp nhận nước và giếng tách. Chính quyền cần cân nhắc việc xây dựng, vận hành và bảo dưỡng giếng tách, đặc biệt là các thành phố duyên hải chịu tác động của thủy triều. Mặc dù đặc điểm nước trong hai hệ thống thoát nước nước chung và riêng khá khác biệt, khi quy định về tính toán tải trọng nhà máy xử lý nước thải, các tiêu chuẩn thiết kế của Việt Nam chưa phân biệt nhà máy đó tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nào. Trong quá trình lập kế hoạch dự án thoát nước và xử lý nước thải cũng như khi lựa chọn công 71 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam nghệ, chính quyền cần xem xét kỹ vấn đề này. Trong quá trình lập kế hoạch VSMT, cần chú ý hơn đến công tác quản lý mạng lưới chứ không chỉ quan tâm đến các giải pháp xử lý như hiện nay. Chính quyền cần đảm bảo đấu nối hộ gia đình là một phần không tách rời của hệ thống thoát nước và xử lý nước thải 158. Đấu nối hộ gia đình là thiết yếu để đảm bảo sự thành công cho các dự án xử lý nước thải và cần thiết phải xem xét công tác đấu nối hộ gia đình trong trong công tác quy hoạch và các chương trình hoạch định vốn đầu tư. Việc cải tiến cả về chất và số lượng các đấu nối nước thải từ hộ gia đình ra hệ thống thoát nước (cả hệ thống thoát nước chung hay riêng) sẽ cho phép khai thác hiệu quả hệ thống hạ tầng thoát nước công cộng. 159. Chính quyền cần cải thiện chất lượng và tăng tỷ lệ đấu nối hộ gia đình vào mạng lưới thoát nước công cộng vì các hoạt động này đóng vai trò quan trọng đối với sự hiệu quả hoạt động của hệ thống thoát nước và xử lý nước thải cho dù sử dụng mạng lưới thoát nước chung hay riêng. Chính quyền có thể áp dụng các biện pháp dưới đây để tăng tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: ●● Nâng cao nhận thức cộng đồng bằng cách triển khai chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông khuyến khích đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước công cộng, nêu rõ các lợi ích hoạt động này mang lại cho người sử dụng và cải thiện môi trường cho cộng đồng. ●● Chính quyền địa phương ban hành quy định bắt buộc các hộ gia đình sinh sống trong khu vực sử dụng hệ thống thoát nước công cộng phải thực hiện đấu nối vào hệ thống. ●● Nhà nước hỗ trợ các hộ gia đình thực hiện đấu nối, để khuyến khích các gia đình thực hiện đồng thời giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho các hộ khó khăn, đặc biệt là các hộ nghèo theo tiêu chuẩn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. ●● Thành lập nhóm công tác/phòng đấu nối hộ gia đình trong công ty chịu trách nhiệm vận hành hệ thống thoát nước. Mục đích của nhóm công tác đấu nối hộ gia đình là nhằm khuyến khích, cấp giấy phép và giám sát công tác đấu nối hộ gia đình ở khu vực cung cấp dịch vụ thoát nước. 3.4. Công nghệ xử lý nước thải và tiêu chuẩn xả thải Lựa chọn công nghệ xử lý nước thải phù hợp 160. Để phát triển lĩnh vực VSMT ở Việt Nam, cần chú ý hơn nữa công tác lựa chọn công nghệ xử lý. Công nghệ xử lý cần phù hợp đặc điểm nước thải đầu vào trong toàn bộ thời gian hoạt động của công trình, đáp ứng được tiêu chuẩn xả thải, yêu cầu của nguồn tiếp nhận nước và thích hợp với điều kiện địa điểm công trình. Nhà nước cần khuyến khích cán bộ lãnh đạo các cấp tham gia lựa chọn công nghệ và thiết kế dự án để đảm bảo dự án có hiệu quả kinh tế - tài chính, có thể trang trải được chi phí phát sinh trong toàn bộ vòng đời công trình và mức giá nước thải hợp lý. Quy định linh hoạt chất lượng nước thải sau xử lý tùy theo nguồn tiếp nhận nước sẽ giúp chính quyền có thể nâng cấp dần công trình xử lý theo khả năng của mình 161. Khả năng tự làm sạch của nguồn tiếp nhận cũng như đặc tính nước thải cần phải được xem xét kỹ khi thiết kế công trình xử lý nước thải. Hệ thống tiêu chuẩn xả thải hiện hành yêu cầu nước thải cần được xử lý ở mức cao để đạt được giới hạn đối với hàm lượng Ni-tơ cho phép sau xử lý, dẫn đến việc các công nghệ chi phí thấp như hồ sinh học hay bể lọc sinh học nhỏ giọt không có cơ hội áp dụng. Điều này dẫn đến chi phí vận hành và bảo trì hệ thống cao và khó đáp ứng được. Một số giải pháp thu gom và xử lý nước thải 72 báo cáo chính hợp lý thường áp dụng cho hệ thống xử lý nước thải phân tán như: hệ thống thoát nước giản lược, bể tự hoại có vách ngăn với ngăn lọc kỵ khí, bãi lọc trồng cây và các công trình vệ sinh công cộng có thu hồi khí sinh học. Tuy nhiên các hệ thống này có thể không đạt các tiêu chuẩn xả thải hiện hành. Một giải pháp có thể cân nhắc là trước tiên xây dựng hệ thống ở mức đơn giản tức là chưa xử lý hay xử lý ở mức độ thấp các thành phần chất dinh dưỡng (đối với các nguồn tiếp nhận không nhạy cảm với chất dinh dưỡng), và sau đó tăng tiêu chuẩn xả thải lên khi hệ thống thoát nước có đủ thời gian để hoàn thiện, cũng như các nguồn tài chính được phân bổ. Hình 3.3 Xả tràn từ giếng tách nước mưa ra bờ biền Đà nẵng Ảnh: Corning J, 2012 162. Cần phân kỳ xây dựng các nhà máy xử lý nước thải. Với nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải thấp như hiện nay, Nhà nước nên phân kỳ xây dựng các công trình thu gom và xử lý nước thải. Ví dụ, tiêu chuẩn thải tăng dần sẽ giúp các thành phố chỉ đầu tư xây dựng công trình xử lý lý/hóa trong thời gian đầu, dành nhiều vốn hơn để phát triển mạng lưới thu gom và đấu nối hộ gia đình rồi bổ sung quá trình xử lý sinh học trong giai đoạn sau. Thực hiện nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý theo lưu vực sông trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn xả thải sẽ giúp chính quyền giảm đáng kể chi phí xử lý nước thải và áp dụng các giải pháp như: ●● Xử lý nước thải sơ bộ kết hợp hóa chất tăng cường (CETP); ●● Xả nước thải sau khi đã xử lý sơ bộ kết hợp hóa chất tăng cường ra biển ở các khu vực phù hợp ven biển và ở các đảo; ●● Tái sử dụng nước thải để tưới tiêu; ●● Sử dụng bùn đã xử lý ổn định để làm phân bón. 3.5. Cơ chế tài trợ cho hệ thống thoát nước, xử lý nước thải và thu hồi chi phí Nhà nước nên huy động vốn đầu tư vào lĩnh vực VSMT bằng Chiến lược quốc gia và Chương trình mục tiêu quốc gia về VSMT 163. Nhà nước cần huy động các nguồn vốn khác ngoài ODA để đáp ứng nhu cầu đầu tư của lĩnh vực VSMT. Để thực hiện điều đó, Nhà nước cần thực hiện đối thoại với các tổ chức tài trợ cũng như giữa các cơ quan ban ngành ở trung ương và địa phương. Xây dựng được Chiến lược quốc gia và Chương trình mục tiêu quốc gia về VSMT sẽ giúp nhà nước huy động hiệu quả các nguồn vốn, bao gồm vốn ODA, ngân sách 73 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam chính phủ và vốn từ khu vực tư nhân. Nhu cầu vốn đầu tư rất cao. Dự kiến cần tới 8,3 tỷ Đô la Mỹ để cung cấp dịch vụ thoát nước cho khoảng 36 triệu dân đô thị vào năm 202520. Với hiện trạng đầu tư phát triển lĩnh vực VSMT hiện nay21 chủ yếu là vốn ODA, và tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay, dự kiến trong tương lai nguồn vốn ODA sẽ giảm đáng kể và thay vào đó là vốn vay thương mại. Chiến lược và Chương trình quốc gia này cần cải thiện hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, cụ thể là chi ngân sách dành cho hoạt động bảo vệ môi trường. 164. Nhà nước cần xây dựng các chính sách và cơ chế tài chính thích hợp cho việc đầu tư và vận hành - bảo dưỡng trong lĩnh vực VSMT. Có thể gồm các nguồn vốn viện trợ, trái phiếu chính phủ, PPP, và các nguồn thu khác như áp dụng thu thuế tài sản hoặc tăng thuế thu nhập cá nhân dành cho những hoạt động cụ thể. Xây dựng lộ trình tăng doanh thu, tiến tới thu hồi chi phí 165. Đơn vị vận hành và chính quyền địa phương cần hành động tích cực để tăng doanh thu và trang trải chi phí vận hành công trình thông qua việc các hộ gia đình phải trả chi phí nước thải. Nâng cao mức thu hồi chi phí sẽ giúp thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” tốt hơn và cải thiện tính bền vững về tài chính. Nguồn thu này sẽ dành để bảo dưỡng định kỳ và khẩn cấp, nhằm đảm bảo tính bền vững của công trình trong các chương trình quản lý tài sản và bảo dưỡng dài hạn. Dưới đây là các phương pháp để thực hiện mục tiêu trên: ●● Từng bước tăng phí nước thải theo mức độ sẵn sàng Hình 3.4 Trạm xử lý nước thải ứng dụng chi trả của người sử dụng, nhằm dần dần cải thiện công nghệ bùn hoạt tính mức thu hồi chi phí. ●● Nâng cao nhận thức của người sử dụng dịch vụ về vai trò của VSMT tốt bằng cách tiếp tục thực hiện chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông. Việc này sẽ giúp người sử dụng dịch vụ đánh giá được giá trị và lợi ích dịch vụ VSMT mang lại. ●● Các chiến lược thu hồi chi phí cần nêu rõ tiêu chí giảm chi phí để tránh trường hợp người tiêu dùng phải gánh chịu các hạn chế này khi trả phí dịch vụ. Công trình thoát nước và xử lý nước thải phải thu hồi chi phí và đảm bảo luồng tiền mặt để trang trải chi phí vận hành – bảo dưỡng; tuy nhiên các biện pháp này phải có các công cụ đảm bảo rằng chi phí Nguồn: Corning J., 2012 đó vừa đủ. ●● Chính quyền địa phương và công ty thoát nước nên sẵn sàng tính phí ở mức đủ để thu hồi chi phí. ●● Hỗ trợ tài chính cho các hộ nghèo có thể được thực hiện thông qua các hỗ trợ giá nước thải hay các chương trình tài chính vi mô như cho vay tín dụng nhỏ hay tín dụng tuần hoàn. 166. Chính quyền địa phương cần cam kết hỗ trợ tài chính để bù đắp phần chi phí mà doanh thu từ phí chưa trang trải được, bao gồm cả chi phí bảo dưỡng thường xuyên và khẩn cấp. Cam kết trang trải chi Ước tính chi phí đầu tư cơ bản cho hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đô thị trung bình là 250 USD/đầu người. Tốc 20 độ gia tăng dân số trung bình hàng năm là 3%. Dân số đô thị là 36 triệu người vào năm 2025. Ước tính tổng đầu tư trong những thập kỷ qua đạt 2,1 tỷ USD. 21 74 báo cáo chính phí vận hành của chính quyền địa phương là động lực cải thiện dịch vụ VSMT đô thị. Nếu ngân sách chỉ đủ trang trải chi phí bảo dưỡng định kỳ hoặc khẩn cấp thì đơn vị vận hành sẽ khó thực hiện bảo dưỡng công trình lâu dài, và có thể khiến chất lượng dịch vụ VSMT bị giảm hoặc không thể cung cấp dịch vụ được. 167. Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư các nhà máy xử lý nước thải ở một số địa phương. Người nghèo ở các thị trấn nhỏ không đủ khả năng trả mức phí đủ để thu hồi chi phí của nhà máy xử lý nước thải. Vì vậy để mở rộng được phạm vi cung cấp dịch vụ, nhà nước cần hỗ trợ tài chính, ít nhất là hỗ trợ đầu tư xây dựng các nhà máy này. Các hỗ trợ này cũng có hiệu quả bảo vệ môi trường và xóa đói giảm nghèo. Chính phủ nhiều nước cũng hỗ trợ tài chính để đầu tư phát triển VSMT. Phát triển chính sách thu hút khu vực tư nhân đầu tư vào hoạt động thu gom và xử lý nước thải 168. Chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào lĩnh vực VSMT bao gồm các biện pháp cải thiện môi trường kinh doanh và tăng phí nước thải để đảm bảo thu hồi chi phí vận hành – bảo dưỡng. Kết hợp cung cấp dịch vụ cấp nước và VSMT sẽ giúp lĩnh vực VSMT thu hút khu vực tư nhân hơn. Các doanh nghiệp tư nhân đầu tư phát triển địa ốc có thể đưa chi phí xây dựng công trình thu gom và xử lý nước thải vào chi phí đất đai, nhà ở để bán cho người mua theo giá thị trường, do đó giảm chi ngân sách. Tuy nhiên, hạ tầng do khu vực tư nhân xây dựng phải đảm bảo tuân thủ quy hoạch chung của thành phố. Cần phối kết hợp đầu tư của tư nhân với đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực VSMT để đảm bảo cung cấp dịch vụ không chỉ cho khu vực mang lại lợi nhuận mà cả cộng đồng nghèo. Đầu tư của tư nhân và nhà nước phải phát triển được hệ thống thu gom và xử lý nước thải hoàn thiện, bao gồm các công trình đấu nối, mạng lưới và nhà máy xử lý. 3.6. Tích cực, sáng tạo và đổi mới để mang lại lợi ích cho người sử dụng dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải Xây dựng năng lực cho các đơn vị cung cấp dịch vụ và cơ quan sở hữu công trình để tăng cường hiệu quả và tính bền vững cho hệ thống 169. Cần xây dựng năng lực cho tất cả các cơ quan tham gia quản lý VSMT đô thị, từ trung ương đến địa phương. Hoạt động này bao gồm việc nâng cao năng lực cho các đơn vị cung cấp dịch vụ và chủ sở hữu công trình VSMT. Năng lực được cải thiện, hiệu quả phối hợp được nâng cao sẽ giúp thực hiện dự án hiệu quả. 170. Cùng với công trình kỹ thuật, chính quyền địa phương cần thực hiện “các biện pháp mềm” như xây dựng năng lực, sắp xếp thể chế và tài chính. Chính quyền địa phương cần đảm bảo tất các bên liên quan, từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân viên trong công ty công ích và đơn vị cung cấp dịch vụ nâng cao được nhận thức chung về các vấn đề kỹ thuật, môi trường, quản lý, thể chế, xã hội và có kỹ năng cần thiết để phát triển dự án và cung cấp dịch vụ thành công. Có thể khuyến khích sáng tạo và đổi mới - động lực thúc đẩy hiệu quả cung cấp dịch vụ bằng cách để thị trường điều tiết trên cơ sở quan hệ hợp đồng. Sự tham gia của các thành phần khác như khu vực tư nhân cũng có thể cải thiện hiệu quả hoạt động và giúp cân bằng lợi ích lâu dài của các bên có liên quan. Nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải mang lại 171. Cần thực hiện các chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông thay đổi hành vi để nâng cao nhận thức cộng đồng và để mọi người đánh giá được lợi ích vệ sinh môi trường tốt mang lại. Cũng như chính quyền địa phương cần có “công cụ” để tính phí dịch vụ vệ sinh, người sử dụng dịch vụ cũng cần nhận thức được lợi ích dịch vụ mang lại và sẵn sàng trả chi phí dịch vụ. Các dự án thoát nước và xử lý nước thải 75 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam cần thực hiện chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề vệ sinh nói chung và nhận thức về các lợi ích mà hệ thống vệ sinh này mang lại. Nhờ đó người sử dụng dịch vụ sẽ tích cực tham gia đấu nối đường ống vệ sinh trong nhà vào hệ thống thoát nước công cộng, sẵn sàng chi trả phí dịch vụ; do đó tăng doanh thu từ phí và cải thiện được hiệu quả thu hồi chi phí. 3.7. Quản lý phân bùn ở khu vực đô thị là một nội dung quan trọng của công tác lập kế hoạch phát triển VSMT Xây dựng chiến lược quản lý phân bùn cho thành phố 172. Chính quyền địa phương cần xây dựng chiến lược quản lý phân bùn cho thành phố. Bể tự hoại vẫn sẽ là công trình xử lý sơ bộ quan trọng tại các khu vực đô thị hiện đang sử dụng hệ thống thoát nước chung ở Việt Nam. Ngoài các văn bản về đấu nối hộ gia đình và quản lý hệ thống quản lý nước thải đô thị, chính quyền địa phương nên ban hành các quy định về bể tự hoại. Chính quyền địa phương nên thực hiện các biện pháp sau để quản lý phân bùn: ●● Xây dựng chiến lược quản lý phân bùn và lồng ghép vào quá trình lập kế hoạch phát triển hạ tầng đô thị; ●● Nâng cao nhận thức, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính bằng cách thực hiện các chương trình phù hợp như tài trợ vi mô hay quỹ tín dụng quay vòng; ●● Bắt buộc thông hút thường xuyên bể tự hoại; ●● Xem xét cung cấp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia quản lý phân bùn như trả tiền cho lượng phân bùn vận chuyển an toàn đến nhà máy xử lý hợp vệ sinh; cho vay ưu đãi để đầu tư vào lĩnh vực quản lý phân bùn; ●● Tạo doanh thu cho hoạt động quản lý phân bùn bằng cách đưa vào giá nước thải hoặc phí bảo vệ môi trường; ●● Kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu gom, xử lý, đổ thải và tái sử dụng phân bùn; ●● Nâng cao nhận thức cho cộng đồng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quản lý phân bùn; ●● Ngoài ra, hình thức hợp tác Công – Tư là mô hình phù hợp để giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư cơ bản. 173. Trong chiến lược phát triển VSMT đô thị, chính quyền địa phương cần xác định khu vực mà bể tự hoại là một hợp phần của hệ thống quản lý VSMT. Việc cải tiến thiết kế bể tự hoại là cấp thiết. Ở các khu vực cần xây dựng bể tự hoại, chính quyền địa phương cần xem xét hỗ trợ xây dựng hay cải tạo bể tự hoại. Ở các khu vực dự kiến sử dụng hệ thống thoát nước riêng, cần từng bước loại bỏ bể tự hoại khỏi hệ thống thoát nước trong quá trình phát triển hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đô thị. 174. Đối với hệ thống thoát nước chung, vấn đề đấu nối hộ gia đình cần phải được lồng ghép với hoạt động của bể tự hoại vì hiệu quả xử lý các chất rắn trước khi nước thải xả vào hệ thống cống chung có ảnh hưởng lớn tới các công trình xử lý nước thải. Bể tự hoại cần được thiết kế, xây dựng và quản lý hợp lý, bao gồm cả việc nạo vét bùn định kỳ. Các yêu cầu này cần phải được nêu rõ trong các quy định về quản lý nước thải ở cấp trung ương và địa phương. Chi phí đầu tư cho việc xây dựng bể tự hoại, đấu nối từ nhà dân ra hệ thống cống và chi phí nạo vét bùn bể tự hoại cần phải được tính toán khi cân nhắc lựa chọn hệ thống thoát nước và xử lý nước thải thích hợp 175. Bảng 3.1 trình bày các hoạt động mà chính quyền trung ương và địa phương cần thực hiện trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để cải thiện hiệu quả quản lý nước thải đô thị cũng như phát triển bền vững lĩnh vực này. 76 Bảng 3.1 Kiến nghị các hoạt động cần thực hiện để cải thiện công tác quản lý và phát triển bền vững lĩnh vực VSMT đô thị Kiến nghị Các biện pháp cần thực hiện Trung ương Địa phương Chính quyền cần Với những hạn chế về ngân sách và năng lực hiện nay, công tác phân bổ nguồn lực và đầu tư đưa ra các quyết cho các dự án thu gom và xử lý nước thải đô thị trong thập kỷ tới cần tập trung vào các khu định kỹ thuật vực chính sau: (1) thành phố duyên hải tập trung nhiều hoạt động sản xuất công nghiệp và du X chiến lược và toàn lịch; (2) đô thị trung tâm của các vùng phát triển kinh tế trọng điểm; và (3) đô thị tác động đến diện trong giai lưu vực sông chính đoạn lập kế hoạch Trong quá trình lập kế hoạch phát triển VSMT, chính quyền cần đánh giá hiệu quả kinh tế của hệ thống thoát nước chung và riêng. Phương án phù hợp là tiếp tục sử dụng và cải thiện hệ thống thoát nước chung tại các khu vực đã hình thành từ lâu và có mật độ dân cư cao; và cân nhắc xây dựng hệ thống thoát nước riêng ở các khu vực đô thị mới, các đô thị thuộc tỉnh. Ngoài ra X X cũng cần xem xét các giải pháp trung gian hay bổ sung thêm các công trình khác vào hệ thống thoát nước chung để tách nước mưa. Trong quá trình thiết kế hệ thống cần phân tích lượng mưa theo mùa. Chính quyền địa phương thực hiện lập kế hoạch vệ sinh môi trường cho toàn thành phố hay lưu vực sông, dựa trên các tiêu chí đánh giá hiệu quả chi phí toàn diện, trong đó xem xét sử dụng hệ thống quản lý phân tán và tại chỗ cho khu vực ven đô có mật độ dân cư thấp và sử X dụng hệ thống quản lý tập trung cho khu vực đô thị có mật độ dân cư cao, lưu ý đáp ứng nhu cầu của cộng đồng dân cư thu nhập thấp. Khi lập kế hoạch cần đảm bảo cân đối đầu tư giữa công trình xử lý và hệ thống thu gom phù X hợp trong mỗi giai đoạn của dự án. Chính quyền áp dụng công nghệ xử lý nước thải đảm bảo tiêu chuẩn nước thải sau xử lý và phù hợp với các điều kiện về đất đai, nồng độ chất ô nhiễm thấp trong nước đầu vào, khả năng X tiếp nhận của nguồn nước, vốn đầu tư hiện có của địa phương và có chi phí vận hành – bảo dưỡng tối ưu. Chính quyền địa phương áp dụng các quy định (và thực hiện các chương trình Thông tin – Giáo Nâng cao hiệu quả dục – Truyền thông và hỗ trợ tài chính) bắt buộc các hộ gia đình và các đơn vị sử dụng mạng xử lý X X lưới thu gom nước thải phải đấu nối vào mạng lưới, có hỗ trợ tài chính cho hộ có thu nhập thấp. Chính quyền khắc phục tình trạng nước thấm vào mạng lưới bằng cách áp dụng các giải pháp sáng tạo như giảm diện tích đất không tự thấm trong thành phố, xây dựng thảm xanh và bãi X lọc, vùng đệm, bể trữ nước mưa, hồ điều hòa, ... 77 báo cáo chính 78 Kiến nghị Các biện pháp cần thực hiện Trung ương Địa phương Ưu tiên và thực Chính quyền địa phương xây dựng chiến lược quản lý phân bùn và lồng ghép vào quá trình lập X hiện quản lý phân kế hoạch phát triển hạ tầng đô thị. bùn Chính quyền địa phương thông qua và đưa vào áp dụng các quy định về thiết kế và thi công đúng kỹ thuật bể tự hoại, định kỳ thông hút bể tự hoại và đơn vị cung cấp dịch vụ xử lý phân X bùn hợp vệ sinh Chính quyền giao cho một đơn vị công ích ở địa phương thực hiện dịch vụ quản lý phân bùn và người sử dụng trực tiếp trả phí dịch vụ cho đơn vị này khi trả hóa đơn nước hoặc thanh toán X như một phần phí thoát nước Khuyến khích khối tư nhân tham gia thu gom, xử lý phân bùn và cung cấp sản phẩm tái chế từ X phân bùn Thực hiện các chương trình nâng cao nhận thức cho chính quyền địa phương và cộng đồng để X đảm bảo các đối tượng này nhận thức được vai trò của viêc quản lý phân bùn. Thực hiện các chương trình hỗ trợ tài chính cho người nghèo để họ cải tạo/ xây dựng bể tự hoại X và/hoặc hỗ trợ thông hút phân bùn Chính phủ xây dựng một Chiến lược quốc gia và Chương trình quốc gia về VSMT đô thị để X Xây dựng Chương thống nhất hoạt động tài trợ của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương trình quốc gia Cần phân bổ nguồn lực thực hiện các chương trình thoát nước và xử lý nước thải, tập trung vào về vệ sinh môi X các khu vực mà ô nhiễm nước thải đe dọa sức khỏe cộng đồng và môi trường trường đô thị và Cải thiện khung Chính quyền địa phương cần tập trung xây dựng hệ thống quản lý nước thải phù hợp khả năng X pháp lý chi trả, đảm bảo thu hồi chi phí; nếu không chính quyền cần hỗ trợ chi phí lâu dài. Chính quyền nên thực hiện xây dựng cơ cấu biểu phí nước thải đảm bảo thu hồi chi phí, không X X khuyến khích tiếp tục hỗ trợ chi phí cho hệ thống. Chính quyền địa phương cần sẵn sàng tính phí ở mức đảm bảo thu hồi chi phí và tài chính bền X vững trên cơ sở xem xét khả năng chi trả và sự sẵn sàng chi trả của người dân. đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Các cơ quan trung ương phối hợp chặt chẽ với nhau để xây dựng khung pháp lý về quản lý môi X trường và quản lý nước thải theo lưu vực sông. Thường xuyên đối thoại chính sách giữa các bên có liên quan chính ở các cấp, giữa cán bộ nhà X X nước, khu vực tư nhân, đơn vị vận hành, cộng đồng, nhà tài trợ, v.v. Kiến nghị Các biện pháp cần thực hiện Trung ương Địa phương Chính quyền địa phương cần coi phát triển VSMT là một mục tiêu chính, là một trong những X Tạo môi trường chương trình hành động ưu tiên của trung ương và địa phương. thuận lợi để cung Chính quyền địa phương lập kế hoạch phát triển VSMT toàn diện cho toàn thành phố, trong đó cấp dịch vụ cho nêu các giải pháp phù hợp để áp dụng cho các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội, mật độ dân X toàn thành phố/ cư và địa hình khác nhau trên địa bàn thành phố. lưu vực sông Chính quyền thiết lập các đơn vị tập trung cung cấp dịch vụ, thay vì chỉ quản lý cơ sở hạ tầng. X Chính quyền địa phương sẽ đảm trách trách nhiệm xây dựng và ban hành quy định. Chính quyền khuyến khích khu vực tư nhân tham gia lĩnh vực này bằng cách xây dựng các quy X định thuận lợi và quy định biểu phí phù hợp đảm bảo thu hồi chi phí. Chính phủ cần khuyến khích chính quyền/ các công ty công ích địa phương kết hợp phát triển hạ tầng với cải thiện hoạt động cung cấp dịch vụ và nâng cao nhận thức cộng đồng, cải thiện X X hành vi vệ sinh và phối hợp với các tổ chức cộng đồng trong quá trình quản lý cũng như xây dựng các văn bản pháp luật. Chính quyền xây dựng nhận thức cộng đồng về VSMT bằng cách thực hiện các chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông về kỹ thuật và những tác động tích cực đến sức khỏe, môi X X trường, kinh tế và tài chính của hoạt động cải thiện VSMT. Chính quyền xây dựng năng lực cho các đơn vị cung cấp dịch vụ và chủ sở hữu công trình VSMT X X nhằm cải thiện hiệu quả và tính bền vững của chương trình 79 báo cáo chính PHỤ LỤC phụ lục PHỤ LỤC A - CÁC CHỈ SỐ CHÍNH ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM Năm Dân số và tốc độ tăng trưởng dân số 2000 2005 2010 Dân số (triệu người) (Tổng cục thống kê, 2010) 77,6 82,2 86,8 Dân số, tốc độ tăng trưởng hàng năm (%) (Tổng cục thống kê, 2010) 1,2 Dân số đô thị (%) (Tổng cục thống kê, 2010) 18,7 22,5 26,3 Tốc độ tăng trưởng dân số đô thị (%) (Tổng cục thống kê, 2010) 3,5 Dân số nông thôn (%) (Tổng cục thống kê, 2010) 58,9 59,7 60,5 Tốc độ tăng trưởng dân số nông thôn (%) (Tổng cục thống kê, 2010) 0,3 Mục tiêu thiên niên kỷ Giá trị Ghi chú Mục tiêu về tỷ lệ cấp nước (%) đến 2015 79 Mốc so sánh năm 1990: 58% (WHO – UNICEF, 2010) Mục tiêu về tỷ lệ sử dụng dịch vụ VSMT (%) đến 2015 68 Mốc so sánh năm 1990: 36% (WHO – UNICEF, 2010) Số sơ sinh tử vong (tính trên 1000 trẻ) đến 2015 Mốc so sánh năm 1990: 44,4%. 15 (WHO – UNICEF, 2010) 2009: 16 Kết quả VSMT Kết quả Ghi chú 94%: JMP, WHO – UNICEF, 2008; 91%: Tỷ lệ sử dụng nhà vệ sinh ở đô thị (%) 91; 94 WB - Hydroconceil & PEM, 2008 Tỷ lệ đấu nối vào hệ thống thoát nước đô thị (%)[1] 60 Nguyễn V. A. và cộng sự, 2012 Lượng nước thải được xử lý đến năm 2012 (triệu lít/ngày) 438 Xem Phụ lục A Công suất lắp đặt công trình xử lý nước thải đến năm 2012 530 Xem Phụ lục B (triệu lít/ngày) So sánh lượng nước thải được xử lý Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý (%) 10 (Phụ lục B) với lượng nước cấp (Bộ Xây dựng, Ngân hàng Thế giới, 2013) Tỷ lệ hệ thống thoát nước chung (%) 92 Xem Bảng 1.2 Trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột Tỷ lệ hệ thống thoát nước riêng (%) 8 và Đà Lạt, các khu vực mới phát triển ở các thành phố khác Tỷ lệ sử dụng công trình vệ sinh tại chỗ ở đô thị (%) (Nguyễn V. Không bao gồm đấu nối vào mạng 40 A. và cộng sự, 2012) lưới thoát nước Tỷ lệ phân bùn được xử lý hợp vệ sinh (%) 4.3 Ước tính của Đoàn Công tác Chỉ 42% đạt tiêu chuẩn vệ sinh nước Tỷ lệ cấp nước nông thôn (%) (Chương trình đánh giá chung 92 sạch của Bộ Y tế (Bộ NN&PTNT – Văn JMP, WHO – UNICEF, 2010) phòng Chính phủ, 2011) Chỉ 18% đạt tiêu chuẩn vệ sinh nước Tỷ lệ sử dụng nhà vệ sinh ở nông thôn (%) (Chương trình đánh 66 sạch của Bộ Y tế (UNICEF – Bộ Y tế, giá chung JMP, WHO – UNICEF, 2010) 2007) 83 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Kết quả VSMT Kết quả Ghi chú Nguồn nước, tính theo đầu người mỗi năm (m3/người/năm) 3.840 Đến 2025: 2.830 (Nguyễn V. A. và cộng sự, 2011) 73% vào năm 2011 (JICA, 2011); 80% Tỷ lệ sử dụng nước cấp ở đô thị (%) (Chương trình đánh giá 99 vào năm 2012 (Nguyễn V. A. và cộng chung JMP, WHO – UNICEF, 2010) sự, 2012) Tỷ lệ dân số được cấp nước sạch 24/7 (%) (Hội cấp thoát nước 60 Việt Nam, 2006) Tỷ lệ mẫu nước cấp đạt tiêu chuẩn chất lượng nước (%) (JICA, 59 2011) Chú thích: [1] Tỷ lệ phần trăm dân số đô thị đấu nối vào mạng lưới thoát nước chung hay riêng, đã xử lý hoặc chưa xử lý nước thải. Con số này bao gồm các hộ gia đình có công trình vệ sinh tại chỗ. Ở các thành phố của Việt Nam, hầu hết các bể tự hoại xử lý nước đen, sau đó nước đã xử lý sơ bộ này được xả vào hệ thống thoát nước chung và hòa vào dòng nước xám chưa xử lý và nước mưa. Tài chính Giá trị Ghi chú GDP tính theo đầu người, 2011 (USD) (Ngân hàng Thế giới, 1.408 401,5 vào năm 2000 2011) Tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực nước hàng năm (triệu USD) 1.238 triệu USD trong giai đoạn 1991 88,426 (Nguyễn V. A. và cộng sự, 2012) – 2005. ODA: 2.100 triệu USD trong giai đoạn 1995 – 2009 hay 150 triệu USD mỗi Tổng vốn đầu tư hàng năm vào lĩnh vực bảo vệ môi trường 400 năm. Ngân sách nhà nước dành cho (triệu USD) (Grontmij – WSP, 2012) hoạt động bảo vệ môi trường: 250 triệu USD mỗi năm. Gồm 0,2% từ vốn ODA và 0,25% từ Đầu tư vào lĩnh vực VSMT so với GDP (%) 0,45 ngân sách nhà nước dành cho hoạt động bảo vệ môi trường Giá nước sạch tiêu biểu (VNĐ/m3) 4.000 Xem bảng 1.5 Phí nước thải tiêu biểu (VNĐ/m ) 3 400 Xem bảng 1.5 Phí thông hút bùn (VNĐ/hộ) (Nguyễn V. A. và cộng sự, 2012) 700.000 Tỷ lệ thất thu nước (%) (JICA, 2011) 30 Năm 2000: 40% Chi phí quản lý phân bùn (USD/người, theo thời giá năm 2010) 0,2 Tính toán từ trường hợp ở Hải Phòng (từ Nguyễn V. A. và cộng sự, 2012) Chú thích: [2] Lưu ý rằng đầu tư trong mấy năm gần đây đã tăng đáng kể, lên mức khoảng 250 triệu USD/năm. 84 PHỤ LỤC B - DANH MỤC CÁC NHÀ MÁY XỬ LÝ NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM Bảng B1: Các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động (tính đến tháng 12/2012) Công suất (m3/ngày) Hệ thống Năm Quy trình/ STT Nhà máy Thành phố thu gom bắt đầu Thiết kế Hoạt động Công nghệ xử lý nước thải Kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí 1 Kim Liên 2005 3.700 3.700 Chung (Bùn hoạt tính) Chung Kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí 2 Trúc Bạch 2005 2.500 2.500 Hà Nội (Bùn hoạt tính) Chung Kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí có 3 Bắc Thăng Long 2009 42.000 7.000 khử ni-tơ 4 Yên Sở 2012 200.000 120.000 Chung Bể phản ứng theo mẻ 5 Bình Hưng 2009 141.000 141.000 Chung Bùn hoạt tính truyền thống 6 Bình Hưng Hòa 2008 30.000 30.000 Chung Hồ hiếu khí + Hồ hoàn thiện 7 Cảnh Đồi (Phú Mỹ Hưng) Hồ Chí Minh 2007 10.000 10.000 Riêng Mương oxy hóa Kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí 8 Nam Viên (Phú Mỹ Hưng) 2009 15.000 15.000 Riêng (Bùn hoạt tính) 9 Sơn Trà 2006 15.900 15.900 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ 10 Hòa Cường 2006 36.418 36.418 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ Đà Nẵng 11 Phú Lộc 2006 36.430 36.430 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ 12 Ngũ Hành Sơn 2006 11.629 11.629 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ 13 Bãi Cháy 2007 3.500 3.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ Quảng Ninh 14 Hà Khánh 2009 7.000 7.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ 15 Đà Lạt Đà Lạt 2006 7.400 6.000 Riêng Bể lắng hai vỏ + Lọc sinh học nhỏ giọt Riêng Chuỗi hồ (hồ kỵ khí, hồ tùy tiện, 16 Buôn Ma Thuột Buôn Ma Thuột 2006 8.125 5.700 hồ hoàn thiện) 17 Bắc Giang Bắc Giang 2010 10.000 8.000 Chung Mương oxy hóa 85 phụ lục Bảng B2: Các nhà máy xử lý nước thải đang đang thiết kế hoặc thi công (tính đến tháng 12/2012) 86 Hệ thống Công suất STT Nhà máy Thành phố thu gom Công nghệ Hiện trạng (m3/ngày) nước thải 1 Tây Hồ Tây 22.800 Chung Bể phản ứng theo mẻ Thi công 2 Yên Xá 275.000 Chung Bùn hoạt tính truyền thống Thiết kế cơ bản Hà Nội 3 Bảy Mẫu 13.300 Chung Bùn hoạt tính truyền thống Đấu thầu xong, thiết kế cơ bản 4 Phú Đô 85.000 Bể phản ứng theo mẻ Thiết kế xong 5 Tham Luông-Bến Cát 250.000 Chung Bể phản ứng theo mẻ Thiết kế xong HCMC Bể phản ứng theo mẻ / 6 Nhiêu Lộc-Thị Nghè 480.000 Chung Đang thiết kế Bùn hoạt tính truyền thống 7 Thái Nguyên Thái Nguyên 10.000 Chung Mương oxy hóa Bắt đầu thi công 8 Vĩnh Niệm Hải Phòng 36.000 Chung Bùn hoạt tính truyền thống Đang mời thầu 9 Hải Dương Hải Dương 13.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ Thi công (dự kiến hoàn tất vào 6/2013) 10 Quất Lưu Vĩnh Phúc 5.000 Chung Bùn hoạt tính truyền thống Đang thi công Hoàn tất thi công, bắt đầu vận hành 11 Bắc Ninh 17.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ 9/2013 Bắc Ninh Thi công (dự kiến hoàn tất vào tháng 12 Từ Sơn 20.000 Chung Bể phản ứng theo mẻ 8/2013) 13 Phủ Lý Hà Nam 5.000 Chung Bùn hoạt tính truyền thống Đang thi công 14 Thanh Hóa Thanh Hóa 15.000 Chung Chuỗi hồ sinh học Đang thiết kế 15 Vinh 25.000 Chung Bể phản ứng theo mẻ Hoàn tất thi công, vận hành năm 2012 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Nghệ An Thi công 16 Cửa Lò 7.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ (dự kiến hoàn tất tháng 6/2013) 17 Đức Minh Quảng Bình 8570 Chung Hồ sục khí Đang thi công CEPT + 18 Hà Thanh (1C) 14.000 Chung Under construction Bình Định Lọc sinh học nhỏ giọt 19 Phú Tài (2A) 8.000 Chung Mương oxy hóa Đang thi công Hệ thống Công suất STT Nhà máy Thành phố thu gom Công nghệ Hiện trạng (m3/ngày) nước thải 20 NM XLNT số 2 Huế 17.100 Chung Bùn hoạt tính truyền thống Đang thi công 21 Hòa Xuân 20.000 Chung Mương oxy hóa Thiết kế xong Đà Nẵng 22 Liên Chiểu 40.000 Chung Mương oxy hóa Đang thiết kế 23 Hội An 7.000 Riêng Bùn hoạt tính truyền thống Đang thi công 24 Nha Trang Nha Trang 40.000 Chung Mương oxy hóa Đang mời thầu 25 Cái Sâu Cần Thơ 32.000 Chung Mương oxy hóa Đang thi công Riêng, có Thi công và đưa vào hoạt động từ 26 Nam Thủ Dầu Một Bình Dương 17.650 đấu nối hộ Bể phản ứng theo mẻ 7/2013 gia đình Hoàn tất Giai đoạn 1, vận hành từ 27 Sóc Trăng Sóc Trăng 17.570 Chung Lắng sơ cấp 6/2013 28 Bà Rịa 12.000 Chung Mương oxy hóa Đã đấu thầu xong BR-VT 29 Vũng Tàu 20.000 Chung Mương oxy hóa Đang thi công 30 Trà Vinh Trà Vinh 18.135 Chung Lắng sơ cấp Đang thi công Thi công hoàn tất; Không có nước thải 31 Châu Đốc An Giang 2.000 Riêng Kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí đầu vào do không thực hiện đấu nối hộ gia đình Chung Phan Rang- 32 Ninh Thuận 10.000 /Riêng Hồ sinh học Đang xây dựng Tháp Chàm /Tái sử dụng 87 phụ lục Bảng B3: Các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động 88 Vị trí Công suất/Công nghệ xử lý Hiện trạng Hệ thống thoát nước: Chung 04 nhà máy, tổng công suất là 248.000 m3/ngày: Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: ~80-90% - Kim Liên (3.700m3/ngày)/A2O có khử trùng; Tỷ lệ hộ có bể tự hoại: ~80-90% - Trúc Bạch (2.300m3/ngày)/A2O có khử trùng; Hà Nội Các vấn đề gặp phải khi xử lý: nồng độ BOD trong nước thải thấp gây khó khăn cho - Bắc Thăng Long (42.000m3/ngày)/Bùn hoạt quá trình loại bỏ ni-tơ. Nhà máy Bắc Thăng Long tiếp nhận lượng nước thải đầu vào tính, ni-trat hóa và khử trùng; ít (đạt 17% công suất). - Yên Sở (200.000m3/ngày)/Phản ứng theo mẻ, Phí nước thải: Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải (10% giá nước sạch)/ loại bỏ ni-tơ và khử trùng bằng tia UV ~0,34 USD/20 m3. Riêng khu công nghiệp Bắc Thăng Long thu 2.400VNĐ/m3 02 nhà máy, tổng công suất là 171.000 m3/ngày: Hệ thống thoát nước: Chung 3 Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: 90%; - Bình Hưng (141.000m /ngày)/Bùn hoạt tính Hồ Chí Minh truyền thống Các vấn đề gặp phải khi xử lý: ô nhiễm mùi khi ủ vi sinh bùn thải ở nhà máy Bình - Bình Hưng Hòa (30.000m3/ngày)/Hồ sục khí + Hưng. Hồ hoàn thiện Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải (10% giá nước sạch) Hệ thống thoát nước: Chung và riêng Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: 90%; Nhà máy xử lý nước thải Bắc Giang (10.000m3/ Các vấn đề gặp phải khi xử lý và vận hành: không hoạt đông đạt hiệu quả tối ưu. Bắc Giang ngày)/Mương ô-xy hóa, bùn hoạt tính, có khử Chưa hề xử lý bùn kể từ khi bắt đầu hoạt động (1,5 năm trước). trùng bằng Clo Phí nước thải: thu phí bảo vệ môi trường (10% giá nước sạch), nguồn thu này chưa được phân bổ về cho công ty để trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng công trình Hệ thống thoát nước: Chung 02 nhà máy, tổng công suất 11.000m3/ngày: Các vấn đề gặp phải khi xử lý và vận hành: nồng độ BOD trong nước thải đầu vào Quảng Ninh - Hà Khánh (7.500m3/ngày)/Phản ứng theo mẻ thấp đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam - Bãi Cháy (3.500m3/ ngày)/Phản ứng theo mẻ Phí nước thải: thu phí bảo vệ môi trường (10% giá nước sạch) Vị trí Công suất/Công nghệ xử lý Hiện trạng 04 nhà máy áp dụng cùng một công nghệ xử lý (hồ yếm khí phủ bạt kín), tổng công suất Hệ thống thoát nước: Chung 64.400 m3/ngày. Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: 10%; Đà Nẵng - Hòa Cường (36.418m3/ngày); Các vấn đề gặp phải khi xử lý và vận hành: Cần nạo vét các hồ. Thiếu công đoạn khử - Sơn Trà (15.900m3/ngày); trùng. - Phú Lộc (36.430m3/ngày); và Phí nước thải: thu phí bảo vệ môi trường (2012 thu 21% giá nước sạch) - Ngũ Hành Sơn (11.629m3/ngày). Hệ thống thoát nước: riêng (không dùng bể tự hoại) Nhà máy xử lý nước thải Buôn Ma Thuột Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: 4.700 (85% số hộ dự kiến) Buôn Ma (8.125 m3/ngày)/Chuỗi hồ ba bậc (Hồ hiếu khí, hồ Tỷ lệ hộ có bể tự hoại: 90% (ở khu vực không sử dụng hệ thống thoát nước riêng) Thuột tùy tiện, hồ hoàn thiện). Tái sử dụng nước thải Các vấn đề gặp phải khi xử lý và vận hành: không đạt các tiêu chuẩn về NH4-N, sau xử lý để tưới cho các đồn điền cà phê. Coliform trong nước thải sau xử lý. Cần sớm nạo vét bùn trong hồ kỵ khí đầu tiên. Phí nước thải: thu phí bảo vệ môi trường là 200VNĐ/m3 Hệ thống thoát nước: riêng Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình: 75%; Tỷ lệ hộ có bể tự hoại: 90% Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt (7.400 m3/ngày)/ Các vấn đề gặp phải khi xử lý và vận hành: NH4-N, DO Lâm Đồng Bể lắng hai vỏ và bể lọc nhỏ giọt. Xử lý bùn và bán phân vi sinh. Phí nước thải: hộ gia đình có đấu nối - 1.000VNĐ/m3 nước tiêu thụ (Nghị định 88), hộ gia đình không đấu nối – thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở mức 300VNĐ/ m3 nước tiêu thụ (Nghị định 67) 89 phụ lục đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam PHỤ LỤC C – CÁC NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH 1: CHẤT LƯỢNG NƯỚC THẢI, TIÊU CHUẨN THẢI VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ XỬ LÝ 1.Giới thiệu và phạm vi Nghiên cứu này đánh giá thực tiễn áp dụng các công nghệ xử lý nước thải ở các đô thị của Việt Nam, tập trung vào 17 hệ thống xử lý nước thải đô thị đang hoạt động ở Việt Nam. Báo cáo sẽ trình bày tổng quan về 17 hệ thống này dựa vào các thông tin thu thập được khi phỏng vấn trong quá trình khảo sát các công trình và kết quả các Phiếu điều tra thu được thông qua Hội Cấp thoát nước Việt Nam. Sau phần trình bày tổng quan, báo cáo đánh giá tác động của tình trạng nước thải đầu vào có nồng độ chất ô nhiễm thấp do tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung. Tiếp sau đó là phần trình bày về triển vọng phát triển của lĩnh vực vệ sinh môi trường, dựa trên thông tin về các dự án dự kiến hay đang thi công. Phần cuối là các kiến nghị về công nghệ xử lý thích hợp đối với từng khu vực cụ thể, loại hệ thống thoát nước, nguồn nhân lực vận hành – bảo dưỡng hiện có và các quy chuẩn xả nước thải có liên quan. 2. Tổng quan các công nghệ xử lý nước thải ở Việt Nam Đến cuối tháng 12/2012, toàn quốc có 17 hệ thống xử lý nước thải đang hoạt động ở các đô thị Việt Nam. Trạm xử lý nước thải đầu tiên được vận hành từ năm 2005. Do vậy có thể nói ngành vệ sinh môi trường ở Việt Nam mới bắt đầu hình thành gần đây. Bảng C1 trình bày thông tin khái quát về các hệ thống này. Cần lưu ý là 12 trong số 17 nhà máy nằm ở các thành phố chính như Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng; 5 nhà máy còn lại nằm ở các đô thị thuộc tỉnh. Công suất thiết kế của các nhà máy khác nhau, từ 3.500 m3/ ngày đêm (Bãi Cháy) đến 200.000 m3/ngày đêm (Yên Sở, Hà Nội) 13 trong số 17 nhà máy tiếp nhận nước thải từ hệ thống thoát nước chung, chỉ có 4 nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước tách riêng hoàn toàn nước thải khỏi nước mưa (Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Cảnh Đồi và Nam Viên – hai hệ thống sau đều ở Phú Mỹ Hưng). Tác động của hai hệ thống thu gom nước thải này sẽ được trình bày trong phần sau của báo cáo. Hiện nay các công nghệ xử lý nước thải ở Việt Nam chủ yếu là các biến thể khác nhau của công nghệ xử lý thứ cấp với bùn hoạt tính, ví dụ như công nghệ bùn hoạt tính truyền thống (CAS), kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí (A2O), mương oxi hóa (OD) và xử lý sinh học theo mẻ (SBR). Công nghệ xử lý bùn hoạt tính được áp dụng phổ biến trong các nhà máy do JICA tài trợ như Kim Liên, Trúc Bạch, Băc Thăng Long (ở Hà Nội) và Bình Hưng (ở thành phố Hồ Chí Minh). Mười trong số mười bảy nhà máy xử lý nước thải đô thị hiện đang áp dụng các hình thức khác nhau của công nghệ xử lý bùn hoạt tính. Bảy nhà máy còn lại áp dụng các công nghệ xử lý đơn giản hơn, như hệ thống hồ kỵ khí phủ bạt (Đà Nẵng), chuỗi hồ sinh học (Buôn Ma Thuột), bể sục khí/hồ hoàn thiện (Bình Hưng Hòa – Hồ Chí Minh) và hệ thống bể lắng hai vỏ/lọc sinh học nhỏ giọt (Đà Lạt). Nhìn chung khi vận hành, các công nghệ đơn giản này có chi phí điện năng, hóa chất, đào tạo và thay thế thiết bị thấp hơn so với các hệ thống xử lý bằng bùn hoạt tính nói trên. 90 phụ lục Bảng C1: Các nhà máy xử lý nước thải đã được khảo sát trong Nghiên cứu Công suất (m3/ngày) Hệ thống Năm Quy trình/ Công nghệ STT Nhà máy Thành phố Hoạt thu gom bắt đầu Thiết kế xử lý động nước thải Kỵ khí – thiếu khí – hiếu 1 Kim Liên 2005 3.700 3.700 Chung khí (Bùn hoạt tính) Chung Kỵ khí – thiếu khí – hiếu 2 Trúc Bạch 2005 2.500 2.500 Hà Nội khí (Bùn hoạt tính) Chung Kỵ khí – thiếu khí – hiếu 3 Bắc Thăng Long 2009 42.000 7.000 khí có khử ni-tơ 4 Yên Sở 2012 200.000 120.000 Chung Bể phản ứng theo mẻ Chung Bùn hoạt tính truyền 5 Bình Hưng 2009 141.000 141.000 thống Chung Hồ hiếu khí + Hồ hoàn 6 Bình Hưng Hòa 2008 30.000 30.000 thiện Hồ Chí Minh Cảnh Đồi 7 2007 10.000 10.000 Riêng Mương oxy hóa (Phú Mỹ Hưng) Nam Viên Kỵ khí – thiếu khí – hiếu 8 2009 15.000 15.000 Riêng (Phú Mỹ Hưng) khí (Bùn hoạt tính) 9 Sơn Trà 2006 15.900 15.900 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ 10 Hòa Cường 2006 36.418 36.418 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ Đà Nẵng 11 Phú Lộc 2006 36.430 36.430 Chung Hồ Kỵ khí có bạt phủ 12 Ngũ Hành Sơn 2006 11.629 11.629 Chung Hồ kỵ khí có bạt phủ 13 Bãi Cháy 2007 3.500 3.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ Quảng Ninh 14 Hà Khánh 2009 7.000 7.500 Chung Bể phản ứng theo mẻ Riêng Bể lắng hai vỏ + Lọc sinh 15 Đà Lạt Đà Lạt 2006 7.400 6.000 học nhỏ giọt Buôn Ma Riêng Chuỗi hồ (hồ kỵ khí, hồ 16 Buôn Ma Thuột 2006 8.125 5.700 Thuột tùy tiện, hồ hoàn thiện) 17 Bắc Giang Bắc Giang 2010 10.000 8.000 Chung Mương oxy hóa Công nghệ áp dụng ở 17 nhà máy xử lý nước thải rất đa dạng, từ hồ kỵ khí phủ bạt ở Đà Nẵng đến hệ thống bùn hoạt tính tiên tiến hơn như ở nhà máy Bình Hưng (Hồ Chí Minh) và Yên Sở (Hà Nội). Tuy nhiên nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt này không phải là các thông số nước thải đầu vào/đầu ra mà do các yếu tố về địa điểm như đất và nguồn nhân lực vận hành – bảo dưỡng hệ thống hiện có. Dự đoán không chính xác các thông số nước thải dẫn đến tình trạng thiết kế nhà máy xử lý nước thải với các giá trị đầu vào quá cao. Không phải tất cả các công nghệ áp dụng ở 17 nhà máy xử lý nước thải được lựa chọn dựa vào điều kiện nước thải đầu vào hay tiêu chuẩn nước thải đầu ra như thường gặp. Điều này được thể hiện rõ trong trường hợp nhà máy xử lý nước thải ở Yên Sở (Hà Nội) và Bình Hưng (Hồ 91 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Chí Minh). Trong giai đoạn thiết kế hai nhà máy xử lý nước thải lớn này, nồng độ chất hữu cơ trong nước thải đầu vào được giả định cao hơn nhiều so với thực tế khi nhà máy bắt đầu hoạt động. Ví dụ, nồng độ BOD trong nước thải đầu vào của nhà máy Yên Sở khi thiết kế được giả định là 200mg/l; tuy nhiên thực tế nhà máy nhận nước thải có nồng độ BOD thấp hơn 50mg/l. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở nhà máy Bình Hưng. Khác biệt về nồng độ chất hữu cơ trong nước thải đầu vào giữa thiết kế và thực tiễn dẫn đến tình trạng thừa công suất xử lý sinh học, đặc biệt là trong công đoạn sục khí. Cần lưu ý là thừa công suất cho thấy có khả năng cải thiện mạng lưới thu gom nước thải trong tương lai khi nước thải có nồng độ chất ô nhiễm cao hơn. Tuy nhiên hiện không rõ chính quyền thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh có sẵn sàng và có đủ khả năng tài chính để đầu tư cải thiện hạ tầng thoát nước cho phù hợp với công suất xử lý của các công trình xử lý không Tác động của tổ chức cho vay khi lựa chọn một loại công nghệ xử lý cụ thể. Một số tổ chức quốc tế có xu hướng thích sử dụng các công nghệ xử lý vốn được áp dụng rộng rãi ở nước họ. Nhận định này không áp dụng cho những nhà máy gặp khó khăn về diện tích, phải áp dụng công nghệ xử lý hợp khối. Công nghệ xử lý bằng bùn hoạt tính có lịch sử hoạt động ở Việt Nam, có thể dễ dàng nâng cấp và xử lý được nhiều chỉ tiêu về nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào và tiêu chuẩn nước thải sau xử lý. Quan điểm lựa chọn công nghệ nặng về cung cấp thiết bị được thể hiện rõ nét trong trường hợp nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long (Hà Nội). Nhà máy có công suất 42.000m3/ngày được xây dựng mà không có hệ thống thu gom nước thải đi kèm. Được thiết kế để phục vụ cộng đồng dân cư xung quanh (150.000 người), nhà máy dự kiến sẽ tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước do chính quyền địa phương đầu tư xây dựng. Tuy nhiên hệ thống thoát nước này chưa được xây dựng, và do vậy sau khi thi công xong, nhà máy không có nước thải để xử lý. Cuối cùng, chính quyền phải lắp đặt tuyến cống dẫn nước thải đã qua xử lý sơ cấp từ trạm xử nước thải trong khu công nghiệp gần đó về xử lý lại tại nhà máy Bắc Thăng Long. Hiện nay nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long vận hành với 16% công suất, xử lý 7.000 m3/ngày nước thải công nghiệp đã qua xử lý sơ cấp. Bài học kinh nghiệm: Tổ chức cho vay chỉ nên tham gia tài trợ các dự án phát triển đồng bộ hệ thống nước thải, bao gồm nhà máy xử lý nước thải, hệ thống thu gom, trạm bơm và đấu nối hộ gia đình nhằm đảm bảo hiệu quả của dự án. Nếu không sẽ có rủi ro đầu tư kém hiệu quả như trường hợp nhà máy Bắc Thăng Long nói trên. Các nhà tài trợ nên áp dụng cách tiếp cận khác khi lựa chọn công nghệ xử lý, ưu tiên các công nghệ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và có chi phí vận hành – bảo dưỡng thấp nhằm giảm gánh nặng tài chính cho chính quyền địa phương. Các nhà tài trợ nên ưu tiên phát triển hệ thống đồng bộ, bao gồm nhà máy xử lý, hệ thống thu gom và đấu nối hộ gia đình. Điển hình là các hệ thống xử lý nước thải quy mô nhỏ ở các thị trấn miền Bắc do Cơ quan Phát triển quốc tế Phần Lan (FINIDA) tài trợ. Điều kiện ở các địa phương này cho phép phát triển các giải pháp xử lý đơn giản. Các dự án này áp dụng công nghệ xử lý phân tán phù hợp với điều kiện địa phương như chuỗi hồ sinh học và bể tự hoại nhiều ngăn đi kèm bãi lọc ngầm trồng cây. Các giải pháp này đều đòi hỏi diện tích đất lớn – đây là điều không khả thi ở các khu vực có mật độ dân cư đông hơn. Các hệ thống xử lý nước thải lớn hơn như hệ thống ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột do Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIDA) tài trợ dựa trên các công nghệ sử dụng bể lắng hai vỏ/lọc sinh học nhỏ giọt và chuỗi hồ sinh học. Lựa chọn các giải pháp công nghệ ít phức tạp hơn sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến tính bền vững về tài chính của công trình, do các giải pháp này có chi phí vận hành – bảo dưỡng ít hơn. Tuy nhiên, các công nghệ này khá tốn đất và có hiệu quả loại bỏ chất dinh dưỡng hạn chế. Các hồ kỵ khí phủ bạt ở Đà Nẵng là giải pháp công nghệ thấp và không phải là giải pháp tối ưu nếu xét đến các điều kiện như diện tích 92 phụ lục đất hạn chế và tình trạng dân cư lấn chiếm đất đai. Ngoài ra, các hồ này cũng không khử ni-tơ hiệu quả và đòi hỏi phải bổ sung một công đoạn xử lý nữa nhằm đảm bảo nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn quốc gia về nồng độ chất sinh dưỡng. Trường hợp lựa chọn công nghệ phù hợp điển hình là gần đây trong dự án do ADB tài trợ, thành phố Thanh Hóa đã quyết định lựa chọn công nghệ chuỗi hồ sinh học nhằm đảm bảo tính đơn giản và có chi phí vừa phải. Quyết định này được đưa ra dựa trên các điều kiện cụ thể của địa phương như diện tích đất, nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào thấp và nguồn nhân lực còn hạn chế khi vận hành công trình xử lý nước thải phức tạp. Chính quyền địa phương và nhà tài trợ lựa chọn công nghệ phù hợp sẽ tác động tích cực đến sự phát triển bền vững của ngành vệ sinh môi trường Việt Nam, do các hoạt động đầu tư phù hợp hơn với điều kiện địa phương. Lựa chọn công nghệ xử lý. Ngành công nghiệp xử lý nước thải ở Việt Nam còn khá non trẻ với nhà máy xử lý nước thải đầu tiên được vận hành vào năm 2005. Chính quyền địa phương, các Ban quản lý dự án và các nhà lãnh đạo nhìn chung còn thiếu kinh nghiệm về vệ sinh môi trường. Tình trạng này dễ hiểu vì ngành vệ sinh mới phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy nhu cầu phải xây dựng năng lực, đào tạo và tạo điều kiện cho các nhà lãnh đạo tham gia hơn vào các hoạt động vệ sinh để họ có thể đưa ra các quyết định lựa chọn công nghệ xử lý nước thải phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Do những hạn chế về kinh nghiệm trong lĩnh vực vệ sinh môi trường, các nhà lãnh đạo và chính quyền địa phương có thể chưa đánh giá được các yếu tố trong quá trình lựa chọn công nghệ xử lý như khả năng xử lý đạt tiêu chuẩn quốc gia, diện tích đất hiện có, chi phí đầu tư và vận hành - bảo dưỡng lâu dài. Quyết định lựa chọn công nghệ xử lý có thể bị tác động bởi đơn vị cung cấp, công nghệ hiện đang được sử dụng tại các khu vực khác có điều kiện không nhất thiết giống điều kiện của địa phương và công nghệ sử dụng phổ biến trong nước. Khi lựa chọn công nghệ xử lý theo các yếu tố này, chính quyền địa phương sẽ loại bỏ khả năng áp dụng các giải pháp công nghệ khác phù hợp hơn. Không nên chỉ phổ biến một công nghệ xử lý vì nó có thể dẫn đến các vấn đề về không sử dụng/ sử dụng không hiệu quả cũng như các vấn đề về tính bền vững lâu dài của công trình. Quá trình ra quyết định như trên thể hiện rõ nét trong trường hợp công nghệ xử lý bằng bùn hoạt tính trong bể phản ứng theo mẻ cải tiến (ASBR), đang được áp dụng phổ biến những năm gần đây. Trong 5 năm tới, ít nhất 10 nhà máy xử lý nước thải đô thị mới sẽ áp dụng công nghệ này. Một số thuận lợi của công nghệ SBR như đòi hỏi diện tích đất nhỏ, có khả năng loại bỏ chất dinh dưỡng, khiến công nghệ này phù hợp với điều kiện ở đô thị và các khu vực phải xử lý hiệu quả chất dinh dưỡng. Tuy nhiên công nghệ ASBR hiện đang được tuyên truyền như là công nghệ phù hợp với tất cả các khu vực, từ thành phố lớn đến các đô thị thuộc tỉnh và đáp ứng tất cả các yêu cầu xử lý, dù tiêu chuẩn nước thải sau xử lý, nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào, diện tích đất và nguồn nhân lực vận hành công trình như thế nào. Vấn đề nồng độ chất hữu cơ trong nước thải đầu vào thấp và sự thay đổi nồng độ theo mùa không đảm bảo điều kiện cho quá trình xử lý sinh học dường như chưa được cân nhắc trong quá trình lựa chọn công nghệ. Tương tự, công nghệ bùn hoạt tính trong mương ô-xy hóa cũng đang được áp dụng phổ biến ở các thị xã thuộc tỉnh ở Việt Nam một lần nữa đặt ra câu hỏi liệu đây có phải là công nghệ phù hợp nhất cho các đô thị này không. Bài học kinh nghiệm: Các nhà lãnh đạo địa phương cần nắm được kiến thức kỹ thuật về các vấn đề vệ sinh môi trường có liên quan để có thể đưa ra các quyết định kỹ thuật phù hợp. Muốn vậy, cần nâng cao năng lực cho chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu thực hiện dự án, để các kiến thức này có thể được áp dụng trong quá trình ra quyết định sau này, khi cần. 93 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hiệu quả xử lý. Hiệu quả xử lý của mỗi loại công nghệ hiện nay liên quan chặt chẽ đến các thông số ô nhiễm trong nước thải đầu vào. Gía trị trung bình của các thông số ô nhiễm trong nước thải đầu vào và nước thải đầu ra tại 17 nhà máy xử lý nước thải đã được ghi chép lại. Bảng C2 tóm tắt giá trị trung bình hàng năm các thông số ô nhiễm của mỗi nhà máy có thực hiện ghi chép số liệu. Bảng này cũng cho biết hệ thống thu gom nước thải đầu vào là hệ thống thoát nước chung hay riêng. Dựa vào thông số BOD, các thông tin trình bày trong Bảng C2 cho thấy nhà máy xử lý tiếp nhận nước thải có nồng độ BOD từ 31 – 135mg/l từ hệ thống thoát nước chung, và 336 – 380mg/l từ hệ thống thoát nước riêng. Nước sau xử lý có nồng độ BOD dao động từ 3 – 38mg/l, riêng các nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước riêng có nồng độ BOD sau xử lý đạt 14 – 45mg/l. Do vậy, các nhà máy này đều đáp ứng tiêu chuẩn nước thải sau xử lý về nồng độ BOD cho nguồn tiếp nhận loại B, cho dù nồng độ BOD trong hệ thống thoát nước chung và riêng khác nhau, bất kể áp dụng công nghệ xử lý nước thải nào. Việc loại bỏ A-mô-ni và Tổng ni-tơ trong nước thải có ý nghĩa quan trọng hơn. Tiêu chuẩn nước thải sau xử lý xả ra nguồn loại B yêu cầu giá trị hai thông số này lần lượt phải đạt 10mg/l và 40 mg/l. Gía trị trung bình của thông số A-mô-ni và Tổng ni-tơ đo được ở các nhà máy xử lý nước thải tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung đạt từ 1-3 mg/l (NH4) và 7-21mg/l (TN), đo ở các nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước riêng đạt 26-32 mg/l (NH4) và 8-23 mg/l (TN). Cần lưu ý rằng nước thải đầu vào từ hệ thống thoát nước chung có nồng độ A-mô-ni và Tổng ni-tơ (1-28mg/l và 11-44mg/l) thấp hơn nhiều so với nước thải từ hệ thống thoát nước riêng, vấn đề này sẽ được trình bày ở phần sau. So sánh trên cho thấy vấn đề về hiệu quả xử lý nồng độ A-mô-ni ở các nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước riêng ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột. Tình trạng ở Đà Lạt chủ yếu là do nồng độ A-mô-ni trong nước thải đầu vào rất cao (68mg/l) và hệ thống xử lý bậc một/bậc hai không thể xử lý đạt yêu cầu do nồng độ thực tế cao gấp hai lần so với khi thiết kế. Ở Buôn Ma Thuột, nồng độ A-mô-ni trung bình trong nước thải đầu vào là 36mg/l nhưng hiệu quả xử lý tự nhiên bằng chuỗi hồ sinh học không đảm bảo đạt được các giá trị yêu cầu, do đó sẽ phải áp dụng thêm một số công đoạn xử lý khác nhằm xử lý thông số A-mô-ni đạt tiêu chuẩn. Các nhà máy xử lý nước thải ở Việt Nam đã thực hiện khử trùng để loại bỏ vi sinh vật gây bệnh trong nước thải trước khi xả ra nguồn tiếp nhận, nhưng trong thực tế hiệu quả xử lý rất khác nhau. Mặc dù có quy định về giá trị thông số co-li-fom (số khuẩn lạc/100ml), nhưng các nhà máy xử lý nước thải được khảo sát hiếm khi xác định thông số này. Dưới đây là các công trình khử trùng ở các nhà máy xử lý nước thải đã khảo sát: a. Thiết bị định lượng clo đi kèm bể tiếp xúc (5 nhà máy); b. Khử trùng bằng UV (1 nhà máy); c. Hồ hoàn thiện (5 nhà máy); d. Không có công trình nào (4 nhà máy). Hai nhà máy Bắc Thăng Long và Bắc Giang không vận hành thiết bị khử trùng bằng clo. Trong ba hệ thống khác đang hoạt động, hai hệ thống đặt ở Hà Nội và một hệ thống ở nhà máy Bình Hưng tại Hồ Chí Minh. Chỉ có nhà máy xử lý nước thải Yên Sở ở Hà Nội thực hiện khử trùng bằng tia UV. Công nghệ này đòi hỏi nước thải sau xử lý phải có chất lượng cao vì độ đục tăng sẽ làm giảm hiệu quả thâm nhập của tia UV vào tế bào vi khuẩn và ảnh hưởng đến hiệu quả khử trùng. Theo kết quả xử lý ở nhà máy Yên Sở, công nghệ khử trùng bằng tia UV có vẻ phù hợp và không tạo ra các sản phẩm phụ không mong muốn như đã xảy ra trong các hệ thống khử trùng bằng clo. 94 phụ lục Năm nhà máy sử dụng hồ hoàn thiện để khử trùng, trong đó bốn nhà máy thực hiện xử lý sinh học trước công đoạn này bằng công trình lọc sinh học nhỏ giọt, hồ sục khí hay SBR. Do các hồ hoàn thiện có khả năng giảm lượng vi sinh vật (theo chỉ thị co-li-fom) một cách tự nhiên, không cần dùng hóa chất nên chất lượng nước thải đầu ra không kiểm soát chặt chẽ được và thay đổi theo điều kiện môi trường. Bốn nhà máy không thực hiện khử trùng, do vậy không có khả năng loại bỏ vi sinh vật gây bệnh mà chỉ loại bỏ được phần nào trong quá trình xử lý sinh học thứ cấp. 95 Bảng C2: Giá trị các thông số ô nhiễm của nhà máy xử lý nước thải 96 Hệ thống BOD COD TSS NH4-N T-N Nhà máy xử lý thu gom Công nghệ (mg/L) (mg/L) (mg/L) (mgN/L) (mg/L) Tiêu chuẩn áp TT Thành phố nước thải nước xử lý Đầu Đầu Đầu Đầu Đầu Đầu Đầu Đầu Đầu Đầu dụng thải vào ra vào ra vào ra vào ra vào ra 1 Hà Nội Kim Liên Chung A2O 94 11 189 22 86 6 18 - 44 16 TCVN5945-2005, B (Bùn hoạt tính) 2 Trúc Bạch Chung A2O 94 12 191 24 91 5 - - 39 15 TCVN5945-2005, B (Bùn hoạt tính) 3 Bắc Thăng Long Chung A2O 60 9 115 17 57 5 - - 44 13 QCVN40-2011, B (Bùn hoạt tính) 4 Yên Sở Chung SBR 45 10 132 24 51 10 28 0.5 34 8 QCVN40-2011, A (Bùn hoạt tính) 5 Hồ Chí Minh Bình Hưng Chung Hồ sục khí/ 42 3 135 30 103 7 - - 11 7 QCVN14-2008, B Hồ hoàn thiện 6 Bình Hưng Hòa Chung CAS 78 10 203 50 49 18 18 3.3 - - QCVN14-2008, B 7 Cảnh Đồi – Phú Riêng Mương ô xy Mỹ Hưng hóa (Bùn hoạt Không có thông tin tính) 8 Nam Viên – Phú Riêng A2O Không có thông tin Mỹ Hưng (Bùn hoạt tính) 9 Đà Nẵng Hòa Cường Chung Hồ kỵ khí 67 33 123 66 61 23 - - 24 19 QCVN40-2011, B 10 Ngũ Hành Sơn Chung Hồ kỵ khí 34 29 64 47 28 16 - - 16 13 QCVN40-2011, B 11 Sơn Trà Chung Hồ kỵ khí 39 26 70 50 40 19 - - 18 14 QCVN40-2011, B 12 Phú Lộc Chung Hồ kỵ khí 101 38 178 76 73 23 - - 28 21 QCVN40-2011, B 13 Quảng Ninh Bãi Cháy Chung SBR 36 20 80 32 195 11 1.3 1 0.1 - 14 Hà Khánh Chung SBR 45 23 68 68 41 35 1.1 1 0.2 - 15 Đà Lạt Đà Lạt Riêng Bể lắng hai vỏ/ 380 14 604 65 792 82 68 26 95 8 QCVN24-2009, B đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Lọc SH nhỏ giọt 16 Buôn Ma Buôn Ma Thuột Riêng Chuỗi hồ 336 45 564 98 285 76 36 32 93 23 QCVN24-2009, B Thuột 17 Bắc Giang Bắc Giang Chung Mương ô xy - - 120 25 - - 0.2 0.1 - - QCVN14-2008, B hóa QCVN40:2011/BTNMT, loại A 30 75 50 5 20 QCVN40:2011/BTNMT, loại B 50 150 100 10 40 phụ lục 3. Tác động của nồng độ chất ô nhiễm thấp trong nước thải đầu vào đối với việc áp dụng các công nghệ xử lý Ở Việt Nam, nước thải được thu gom theo hai hệ thống: hệ thống thoát nước chung (thu gom cả nước thải và nước mưa) và hệ thống thoát nước riêng (không thu nước mưa). Hai hệ thống này khác biệt, do nước mưa chảy vào hệ thống thoát nước chung sẽ làm nước thải đầu vào loãng hơn khi chảy về đến nhà máy xử lý nước thải. Điều này đã được ghi nhận trong các dữ liệu thu thập được ở các nhà máy xử lý nước thải, trong đó nồng độ chất hữu cơ (BOD) trong nước thải đầu vào tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung dao động trong khoảng từ 31-135 mg/l, mức trung bình đo được là 67,5 mg/l. Trên thế giới, hệ thống thu gom chung nước mưa và nước thải với các tuyến ống và cống bao lắp đặt ngầm thường có nồng độ BOD trong nước thải cao hơn. Sự khác biệt này ở Việt Nam dường như là kết quả của việc sử dụng các ống cống lớn để thoát nước dẫn đến tình trạng lắng cặn và giảm nồng độ BOD trong nước. Qúa trình xử lý kỵ khí bùn cặn lại không loại bỏ được A-mô-ni và do đó nồng độ A-mô-ni trong nước còn cao. Thông tin về nồng độ chất ô nhiễm thấp trong nước thải đầu vào các công trình xử lý nước thải đang hoạt động tiếp ở Việt Nam được trình bày trong Bảng C2, cho thấy rõ ràng là hệ thống thoát nước chung có nồng độ chất hữu cơ thấp hơn hệ thống thoát nước riêng (không thu gom nước mưa). Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước công cộng là một phần thiết yếu của hệ thống thoát nước, bất kể là thoát nước chung hay riêng. Đấu nối cho phép nước thải từ các hộ gia đình chảy ra ngoài, không cần xây dựng công trình vệ sinh tại chỗ - điều này thường khó thực hiện do đất đai chật hẹp và điều kiện nền đất không đảm bảo. Hầu hết các hộ gia đình ở đô thị Việt Nam đều sử dụng bể tự hoại để xử lý tại chỗ trước khi xả nước thải ra môi trường. Qúa trình xử lý tại chỗ này giúp lắng cặn nước thải, loại bỏ các chất rắn có thể ảnh hưởng tới hệ thống cống thu gom và nhà máy xử lý cuối hệ thống. Bùn thải nhà vệ sinh phân hủy trong môi trường kỵ khí và phải được nạo vét định kỳ để đảm bảo hiệu quả hoạt động của bể tự hoại và không bị đầy ứ. Bể tự hoại bị đầy sẽ không xử lý hiệu quả, gây lắng cặn trong cống và phát sinh mùi. Khi đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng, các gia đình không cần xây dựng bể tự hoại. Đây là thực tế khi xây dựng hệ thống xử lý nước thải Buôn Ma Thuột. Đó là nhờ hệ thống được thiết kế thủy lực đảm bảo, hạn chế được tình trạng lắng cặn trên mạng lưới thu gom. Ngoài ra, hệ thống thoát nước riêng bao gồm các cống kín, do đó ít phát sinh mùi. Nồng độ chất ô nhiễm thấp trong nước thải đầu vào tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung khiến việc vận hành nhà máy xử lý, đặc biệt là các nhà máy áp dụng công nghệ xử lý sinh học gặp nhiều khó khăn. Điều này thể hiện rõ tại nhà máy Yên Sở ở Hà Nội. Khu vực thu gom nước của nhà máy Yên Sở bao gồm các cống thoát nước chung xả vào sông Kim Ngưu và sông Sét và sau đó dẫn về nhà máy xử lý. Do sông Kim Ngưu chảy xuyên qua thành phố, hệ thống thoát nước chung của thành phố xả nước vào sông này. Tốc độ dòng chảy chậm khiến chất rắn trong nước thải lắng xuống đáy và phân hủy trong môi trường kỵ khí. Qúa trình này làm giảm nồng độ chất hữu cơ (BOD) trong nước thải tiếp nhận tại nhà máy xử lý trong khi nồng độ A-mô-ni sau quá trình lên men bùn cặn còn cao. Ở nhà máy Yên Sở, kết quả của việc giảm nồng độ BOD trong khi nồng độ A-mô-ni trong nước thải đầu vào còn cao là khá rõ ràng. Nồng độ BOD trung bình là 45mg/l, nồng độ A-mô-ni trung bình là 28mg/l. Để khử ni-tơ bằng phương pháp sinh học truyền thống, tỷ lệ C:N (tỷ lệ các-bon – ni-tơ) trong nước thải cần đạt ít nhất là 2,73:1; do vậy nước thải ở nhà máy này thiếu các-bon, đôi khi tỷ lệ này giảm xuống dưới 1,0. Như 97 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam vậy để đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn về ni-tơ của nguồn loại A, cán bộ vận hành ở nhà máy Yên Sở phải bổ sung nguồn các-bon bên ngoài cho quá trình xử lý sinh học nhằm đạt tỷ lệ C:N yêu cầu. Nếu hệ thống thu gom được nâng cấp và xây dựng cống bao dọc theo sông Kim Ngưu để tránh tình trạng xả nước xuống sông thì nhà máy sẽ không gặp phải tình trạng thiếu các-bon nói trên. Hơn nữa, việc chấm dứt hay giảm lượng nước thải xả vào sông Kim Ngưu sẽ tác động tích cực đến việc cải thiện môi trường khu vực sông Kim Ngưu vì sông này chảy xuyên qua thành phố. Hệ thống cống bao ở Hà Nội không được xây dựng cũng minh chứng cho tình trạng thiếu đồng bộ giữa hoạt động thoát nước và hoạt động xử lý nước thải. Trong khi chú ý đến việc sử dụng khoảng 300 triệu USD để xây dựng nhà máy xử lý nước thải Yên Sở, chính quyền chưa quan tâm đến việc xây dựng mạng lưới thu gom nước thải mặc dù việc này có thể giúp cải thiện môi trường Hà Nội thông qua cải thiện chất lượng nước sông Kim Ngưu. Việc xây dựng mạng lưới thu gom nước thải cũng góp phần đảm bảo hoạt động bền vững của nhà máy xử lý nước thải Yên Sở. Bài học kinh nghiệm rút ra từ nhà máy Yên Sở: Cần phát triển đồng bộ hệ thống nước thải, bao gồm đấu nối hộ gia đình, thoát nước, trạm bơm và nhà máy xử lý nước thải. Thiếu bất kỳ một hay nhiều hoạt động này sẽ khiến dự án không hiệu quả và không bền vững. 4.Tác động của các tiêu chuẩn nước thải sau xử lý đối với việc áp dụng các công nghệ xử lý Chính phủ Việt Nam quy định tiêu chuẩn nước thải sau xử lý, đặt ra các giá trị cần đạt được về một số thông số ô nhiễm chính dựa vào mục đích sử dụng của nguồn tiếp nhận nước. Thông thường, các giá trị này được phân thành “loại A” và “loại B”, trong đó “loại A” áp dụng cho các nhà máy xả nước thải vào nguồn nước dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt, “loại B” áp dụng cho các nhà máy xả nước vào nguồn nước không dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Hầu hết các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động ở Việt Nam (16/17 nhà máy) thuộc “loại B”. Gía trị tối đa cho phép được quy định rõ ràng cho hầu hết các thông số ô nhiễm như BOD, COD và Tổng chất rắn lơ lửng (TSS); mặc dù vậy trong một số trường hợp lại khó thực hiện được giá trị tối đa cho phép của các thông số chất dinh dưỡng như A-mô-ni và Tổng ni-tơ trong nước thải sau xử lý. Gần đây nhất, QCVN 40:2011 quy định giá trị tối đa cho phép của thông số A-mô-ni và Tổng ni-tơ trong nước thải xả vào nguồn nước không dành cho mục đích cấp nước sinh hoạt lần lượt là 10mg/l và 40mg/l. Các giá trị này tuy không cao bằng quy định của một số nước khác nhưng có thể vẫn phải thực hiện quá trình nitrat hóa (chuyển hóa A-mô-ni thành nitrat) và quá trình khử ni-tơ tùy theo nồng độ A-mô-ni và ni-tơ trong nước thải đầu vào. Như đã đề cập ở phần trước, vấn đề gặp phải ở nhà máy xử lý nước thải Yên Sở nhấn mạnh tầm quan trọng của giá trị tối đa cho phép của thông số Tổng ni-tơ trong nước sau xử lý. Để có thể tạo ra môi trường thích hợp nhằm giảm giá trị Tổng ni-tơ xuống dưới mức 10 mg/l, nhà máy cần bổ sung thêm nguồn các-bon bên ngoài (ví dụ đường), làm chi phí xử lý tăng lên rất nhiều. Các giá trị tối đa cho phép của chất dinh dưỡng trong các tiêu chuẩn xả thải hiện hành là cơ sở để lựa chọn loại công nghệ xử lý bằng bùn hoạt tính (bể phản ứng theo mẻ hay mương ô xy hóa) do các công nghệ này bao gồm quá trình nitrat hóa hay khử ni-tơ sinh học ngay trong bể xử lý. Quy định các giá trị tối đa cho phép của dưỡng chất khắt khe như hiện nay sẽ hạn chế việc áp dụng các công nghệ xử lý đơn giản hơn do các công nghệ này không đảm bảo thực hiện được các giá trị A-mô-ni và Tổng ni-tơ quy định. Do vậy, giá trị tối đa cho phép như hiện nay có thể trở thành căn cứ pháp luật để các nhà sản xuất và cung cấp thiết bị xử lý công nghệ cao quảng bá sản phẩm của mình vì tiêu chuẩn nước thải sau xử lý không cho phép áp dụng các công nghệ khác. Dĩ nhiên cần xét xét cả các nhân tố khác như diện tích đất cần có, khả năng hoạt động ổn định, cảnh quan và kiểm soát ô nhiễm mùi khi lựa chọn công nghệ xử lý, đặc biệt là khi áp dụng công nghệ này ở khu vực đô thị đông dân. 98 phụ lục 5. Triển vọng phát triển công nghệ xử lý nước thải ở Việt Nam Lĩnh vực vệ sinh môi trường trong 5 năm tới sẽ phát triển nhanh chóng, với 32 nhà máy xử lý nước thải đang trong giai đoạn thiết kế và thi công, tổng số nhà máy xử lý trong tương lai tăng gấp gần 3 lần số lượng nhà máy hiện đang hoạt động ở Việt Nam (17 nhà máy). Như tóm tắt ở trên, có đến 80% nhà máy xử lý nước thải trong tương lai sẽ áp dụng các hình thức khác nhau của công nghệ bùn hoạt tính. Việc nhiều nhà máy áp dụng công nghệ bùn hoạt tính trong tương lai cũng làm nảy sinh mối quan ngại về sự phù hợp của công nghệ, đặc biệt khi 17/25 nhà máy áp dụng công nghệ này nằm ở các đô thị thuộc tỉnh, số còn lại ở các thành phố lớn là Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Việc lựa chọn công nghệ phải dựa trên việc đánh giá nhiều yếu tố như khả năng xử lý đạt tiêu chuẩn nước thải sau xử lý, vị trí nhà máy phù hợp, chi phí đầu tư và chi phí vận hành. Mặc dù diện tích đất có tác động lớn đến quyết định lựa chọn công nghệ xử lý hợp khối và phức tạp ở các thành phố lớn và đông dân cư, không cần quá chú trọng vấn đề này khi xem xét áp dụng công nghệ đó ở các đô thị thuộc tỉnh. Từ trung tâm của nhiều thành phố thuộc tỉnh đi ra 3 – 5 km đã là khu vực cánh đồng lúa, ít chịu tác động từ dân cư. Giá đất ở các khu vực nông nghiệp này thấp hơn nhiều so với trong nội thành thành phố, do vậy cho phép áp dụng các giải pháp công nghệ xử lý khác sử dụng diện tích đất nhiều hơn như công nghệ hồ sinh học hay bãi lọc trồng cây, tùy vào công nghệ nào đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn hiện hành. 6. Kết luận và Kiến nghị Đối với 17 nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động. Hệ thống thoát nước chung (nước thải và nước mưa chảy vào một đường ống) hiện đang thu gom và cung cấp 92% lượng nước thải cho các nhà máy ở các đô thị Việt Nam. Theo số liệu về nồng độ BOD trong nước thải đầu vào của 13 nhà máy nhận nước từ hệ thống thoát nước chung, nồng độ BOD trung bình hàng năm là 67,5 mg/l. Với mức này, có thể coi đây hệ thống thoát nước mưa. Trong số 13 nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung, 8 nhà máy áp dụng công nghệ bùn hoạt tính (bùn hoạt tính truyền thống, bể phản ứng theo mẻ, mương ô-xy hóa, kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí) đang chiếm 85% công suất lưu lượng thiết kế của toàn bộ các nhà máy nhận nước từ hệ thống thoát nước chung ở Việt Nam. Trong khi đó, các nhà máy xử lý nước thải tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước riêng có nồng độ BOD trong nước thải đầu vào cao hơn rất nhiều. Như trong Bảng C2, nồng độ BOD trung bình trong nước thải tiếp nhận ở nhà máy Buôn Ma Thuột và Đà Lạt lần lượt là 336 mg/l và 380 mg/l. Các hộ gia đình trong khu vực phục vụ của cả hai nhà máy này đều đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng. Ở Buôn Ma Thuột, các hộ gia đình đấu nối trực tiếp, không sử dụng bể tự hoại trong nhà. Hệ thống thoát nước riêng đảm bảo rằng nước thải phát sinh trong khu vực dịch vụ sẽ được thu gom và xử lý phù hợp mà không ảnh hưởng đến thoát nước mưa. Với việc chỉ thu gom nước thải, không lẫn nước mưa, chính quyền địa phương giảm lượng nước phải bơm và xử lý, do vậy giảm được chi phí đầu tư lẫn vận hành. Kết luận: Việt Nam đang áp dụng các công nghệ kỹ thuật cao và tiên tiến để xử lý “nước thải”, nhưng thực ra ở nhiều nơi nên được coi là nước mưa. Mặc dù có quan điểm coi các nhà máy này là đầu tư cho tương lai nhằm đáp ứng các kỳ vọng và tiêu chuẩn quốc tế, việc sử dụng không hiệu quả các nhà máy này đang đặt ra câu hỏi về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cơ bản. Cần thảo luận về khả năng phân kỳ các tiêu chuẩn xử lý và lựa chọn công nghệ nhằm cải thiện vệ sinh môi trường đô thị Việt Nam bền vững và hợp lý hơn. Đối với 32 nhà máy đang bắt đầu triển khai. Hiện Việt Nam đang thiết kế hay thi công 32 nhà máy xử lý nước thải đô thị khác, dự kiến tất cả đều đi vào hoạt động trong 5 năm tới. Các nhà máy này tiếp nhận 99 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 98% lưu lượng thiết kế từ hệ thống thoát nước chung. Trong số 32 nhà máy này, có 25 nhà máy áp dụng các hình thức khác nhau của công nghệ bùn hoạt tính, như bùn hoạt tính truyền thống, bể phản ứng theo mẻ, mương ô-xy hóa và kỵ khí – thiếu khí – hiếu khí, và có 29 nhà máy tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung. Nếu không có gì thay đổi về nồng độ BOD trong nước thải đầu vào tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung thì trong tương lai, nước trong hệ thống này vẫn có nồng độ chất hữu cơ thấp. Do vậy, nhiều nhà máy xử lý nước thải đang thi công hiện nay trong tương lai vẫn sẽ xử lý nước mưa chứ không phải nước thải. Kết luận: Đa số nhà máy xử lý nước thải tương lai áp dụng công nghệ bùn hoạt tính và tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung vốn có nồng độ chất hữu cơ thấp. Tình trạng xử lý nước thải có nồng độ chất ô nhiễm thấp bằng các nhà máy kỹ thuật tiên tiến sẽ còn tiếp tục diễn ra trong quá trình phát triển của lĩnh vực vệ sinh môi trường ở Việt Nam. Đây không phải là cách thức sử dụng hiệu quả nhất vốn đầu tư. Tình trạng này còn làm tăng chi phí vận hành – bảo dưỡng khi nhà máy đi vào vận hành. Kiến nghị: 1. Cần thực hiện tất cả các khâu (đấu nối hộ gia đình, thoát nước, trạm bơm và xử lý nước thải) khi phát triển hệ thống thoát nước trong cùng một dự án. Nếu không sẽ khiến dự án không hiệu quả và kém bền vững. 2. Chính quyền địa phương cần tập trung hoàn thiện các nhà máy xử lý nước thải hiện chưa có hệ thống cung cấp nước thải như nhà máy Bắc Thăng Long, Yên Sở và Bình Hưng Hòa, xây dựng mạng lưới thu gom phù hợp nhằm sử dụng công trình hiệu quả hơn. 3. Cần thực hiện đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước, cho dù là hệ thống thoát nước chung hay riêng. Đấu nối hộ gia đình giải quyết vấn đề thoát nước thải của từng gia đình, không làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và đảm bảo vệ sinh trong khu vực dịch vụ. Đấu nối vào hệ thống thoát nước sẽ làm tăng nồng độ chất hữu cơ, cải thiện hiệu quả sử dụng nhà máy xử lý nước thải tốn kém vốn được thiết kế để xử lý nước thải có nồng độ chất ô nhiễm cao. 4. Cần cân nhắc kỹ việc sử dụng hệ thống thoát nước riêng, đặc biệt là ở các thành phố thuộc tỉnh nơi mà việc lắp đặt ống cống không cản trở giao thông nhiều như ở các thành phố lớn. Hệ thống thoát nước riêng sẽ chỉ thu gom nước thải, giảm lượng nước thu gom, nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy xử lý nước thải và cải thiện vệ sinh môi trường trong khu vực dịch vụ thông qua việc hạn chế ô nhiễm mùi thường phát sinh từ hệ thống thoát nước chung. 5. Cần lựa chọn công nghệ xử lý nước thải dựa trên nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào, tiêu chuẩn nước thải sau xử lý, đặc điểm nguồn tiếp nhận nước và các điều kiện về địa điểm nhà máy. Công nghệ phù hợp nhất nên là công nghệ có kỹ thuật đơn giản nhất để đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu hoạt động. Nên tránh chọn một công nghệ chỉ vì công nghệ đó được sử dụng rộng rãi hay vì các yếu tố phi kỹ thuật. 6. Cần xây dựng năng lực, đào tạo kỹ thuật về vệ sinh môi trường đô thị cũng như tạo điều kiện tham gia/nâng cao hiểu biết về các dự án tương tự ở Việt Nam và khu vực cho chính quyền địa phương chịu trách nhiệm quản lý và quyết định dự án vệ sinh môi trường. Xây dựng năng lực sẽ giúp lãnh đạo nâng cao nhận thức và hiểu biết kỹ thuật, nhờ đó họ ra các quyết định phù hợp hơn. 7. Các chương trình phát triển hệ thống xử lý nước thải phải thực hiện nâng cao năng lực dưới hình thức đào tạo cán bộ vận hành nhà máy xử lý nước thải từ đơn giản đến phức tạp. Không thực hiện đào tạo trong một giai đoạn ngắn với kỳ vọng cán bộ sẽ có đủ kỹ năng vận hành. Hoạt động đào tạo về một công nghệ cụ thể phải được hỗ trợ bởi các chuyên gia dày kinh nghiệm, đảm bảo chuyển giao được 100 phụ lục công nghệ khi cán bộ đó vận hành nhà máy. Thời gian đào tạo nên kéo dài ít nhất 2 năm, và lâu hơn nếu công nghệ phức tạp. 8. Cần cân nhắc phân đợt thực hiện các tiêu chuẩn nước thải sau xử lý, cho phép lựa chọn công nghệ xử lý đơn giản trong giai đoạn đầu, sau đó tăng dần tiêu chuẩn trong quá trình phát triển hệ thống thoát nước, cải thiện nhận thức cộng đồng về các vấn đề vệ sinh và thu hồi chi phí tốt hơn nhằm tạo điều kiện để áp dụng các giải pháp xử lý nước thải tiên tiến hơn trong tương lai. 101 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH 2: PHÍ NƯỚC THẢI VÀ THU HỒI CHI PHÍ 1. Giới thiệu và Phạm vi Nghiên cứu này sẽ đánh giá tình hình thu hồi chi phí của các Công ty Thoát nước chịu trách nhiệm quản lý 17 nhà máy xử lý nước thải đô thị đang hoạt động ở Việt Nam. Báo cáo này sẽ được trình bày như sau: (a) định nghĩa các yếu tố của thu hồi chi phí và vai trò quan trọng của thu hồi chi phí ở Việt Nam; (b) xác định chi phí hoạt động của từng nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động trong các đô thị Việt Nam; (c) xem xét các quy định về phí dịch vụ nước thải, cách thức thu phí và đánh giá tổng quan về doanh thu từ phí dịch vụ nước thải ở Việt Nam; (d) đánh giá mức độ thu hồi chi phí của các Công ty Thoát nước và (e) trình bày các kiến nghị nhằm cải thiện khả năng thu hồi chi phí hoạt động của các hệ thống nước thải đô thị trong tương lai. 2. Khái niệm và vai trò của thu hồi chi phí đối với sự bền vững tài chính của các hệ thống quản lý nước thải Thu hồi chi phí vệ sinh môi trường đô thị có thể định nghĩa đơn giản là mức mà các chi phí phát sinh trong quá trình vận hành, bảo dưỡng công trình quản lý nước thải được thu hồi từ doanh thu phí dịch vụ thu từ khách hàng hưởng dịch vụ. Tính bền vững và đảm bảo tài chính của hệ thống quản lý nước thải có thể được đánh giá thông qua mức độ thu hồi chi phí vận hành, bảo dưỡng trong phí dịch vụ. Tuy nhiên ở Việt Nam, chi phí thu hồi từ phí dịch vụ nước thải chỉ đủ trang trải một phần tổng chi phí phát sinh, phần lớn chi phí vận hành công trình do nhà nước trợ cấp. Với các quy định hiện hành về phí nước thải và quan điểm không muốn tăng phí của chính quyền thì nhà nước sẽ còn tiếp tục phải trợ cấp chi phí vận hành trong tương lai. Do hiện nay, các công ty quản lý nước thải ở đô thị Việt Nam hoạt động dựa vào hỗ trợ của nhà nước, sự đảm bảo tài chính và hoạt động bền vững của các công ty này phụ thuộc nhiều vào cam kết tiếp tục duy trì hoạt động của công trình của chính quyền địa phương. Do vậy, nếu chính quyền nhận thức được “quyền làm chủ” các hệ thống quản lý nước thải của mình, họ sẽ cam kết thực hiện cả về tài chính và chính trị - đây là điều kiện quan trọng để công ty hoạt động thành công. 3. Xác định chi phí hoạt động của hệ thống quản lý nước thải đang hoạt động ở Việt Nam Chi phí hoạt động của các công trình quản lý nước thải bao gồm chi phí vận hành, bảo dưỡng hệ thống thoát nước, trạm bơm và nhà máy xử lý nước thải. Chi phí này khác nhau tùy vào việc sử dụng hệ thống thoát nước chung hay riêng, số lượng trạm bơm và loại công nghệ áp dụng để xử lý nước thải. Mức độ dịch vụ bảo dưỡng đường ống cũng khác nhau tùy vào đó là bảo dưỡng khẩn cấp hay bảo dưỡng định kỳ, tình trạng hoạt động của các công trình thoát nước do đó cũng tương ứng với mức độ dịch vụ bảo dưỡng. Các nhà máy xử lý nước thải có mức độ cơ khí cao (chiếm đa số trong số các nhà máy đã khảo sát) có chi phí hoạt động cao hơn do sử dụng nhiều điện, hóa chất và nhân công hơn. Bảng C3 so sánh chi phí vận hành, bảo dưỡng của từng nhóm nhà máy xử lý nước thải chia theo công nghệ áp dụng. 102 phụ lục Bảng C3: So sánh chi phí vận hành, bảo dưỡng của các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động Địa điểm Hệ thống thu Công nghệ áp dụng Chi phí (VNĐ/m3) nhà máy xử lý gom nước thải Tuyến cống Nhà máy xử lý Kim Liên Chung Kỵ khí – Thiếu khí – 2.000 4.700 Hiếu khí (Bùn hoạt tính) Trúc Bạch Chung Kỵ khí – Thiếu khí – 4.400 Hiếu khí (BHT) Bắc Thăng Long Nước thải từ Kỵ khí – Thiếu khí – 7.100 khu công nghiệp Hiếu khí (BHT) Yên Sở Kênh mương Bể phản ứng theo mẻ 1.506 (Bùn hoạt tính) Bình Hưng Chung Bùn hoạt tính truyền - 1.200 thống Bình Hưng Hòa Chung Hồ sục khí/Hồ hoàn thiện - 963 Cảnh Đới Riêng Mương oxi hóa (BHT) - - Nam Viên Riêng Kỵ khí – Thiếu khí – - - Hiếu khí (BHT) Sơn Trà Chung Hồ kỵ khí phủ bạt 1.191 (cống chung, bao gồm - cả NMXLNT) Hòa Cường Chung Hồ kỵ khí phủ bạt Đã tính ở trên - Phú Lộc Chung Hồ kỵ khí phủ bạt Đã tính ở trên - Ngũ Hành Sơn Chung Hồ kỵ khí phủ bạt Đã tính ở trên - Bãi Cháy Chung Bể phản ứng theo mẻ - 2.918 (BHT) Hà Khánh Chung Bể phản ứng theo mẻ - 3.276 (BHT) Đà Lạt Riêng Bể lắng hai vỏ/ 4.110 (cống chung) - Lọc nhỏ giọt Buôn Ma Thuột Riêng Chuỗi hồ 1.800 (ước tính) 950 (ước tính) Bắc Giang Chung Mương ô-xy hóa - - (Bùn hoạt tính) Bảng trên trình bày chi phí tổng hợp được từ các nhà máy xử lý nước thải nhưng không thể hiện xu hướng về chi phí hoạt động của các nhà máy này: a. Công nghệ xử lý phức tạp thường có chi phí hoạt động cao hơn. b. Chi phí theo quy mô nhà máy. Các nhà máy xử lý nước thải lớn như Yên Sở và Bình Hưng áp dụng công nghệ xử lý phức tạp hơn nhưng lại có chi phí thấp hơn do tính hiệu quả nhờ quy mô. c. Công nghệ xử lý đơn giản thường có chi phí hoạt động thấp hơn. 103 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 4. Đánh giá các quy định về phí, công tác thu phí và doanh thu từ phí của các công ty thoát nước đô thị Các quy định nhà nước. Phí thoát nước và phí bảo vệ môi trường đối với nước thải được quy định trong Nghị định 88/2007 và Nghị định 67/2003.22 Kể từ khi bắt đầu áp dụng Nghị định 88 năm 2007, chính quyền các địa phương lúng túng không biết áp dụng nghị định nào do hai nghị định đều cùng quy định khung pháp lý về phí nhằm thu hồi chi phí. Tình trạng này là do cả Nghị định 67 và Nghị định 88 đều quy định thu phí từ người sử dụng nước theo tỷ lệ phần trăm của giá nước sạch. Trách nhiệm xây dựng biểu phí và thu phí nước thải giữa Sở Tài nguyên Môi trường và Công ty Cấp nước còn chưa rõ ràng và chồng chéo. Trong hầu hết các trường hợp, Công ty Cấp nước thu phí nước thải. Như vậy, có thể thấy phí bảo vệ môi trường mà Sở Tài nguyên và Môi trường thu chồng chéo với phí thoát nước mà Công ty Cấp nước thu. Tình trạng tương tự xảy ra giữa Ban quản lý khu công nghiệp và doanh nghiệp khi thu phí. Như các Công ty Thoát nước đô thị đã chỉ ra, mục tiêu chính của Nghị định 67 là khuyến khích kiểm soát ô nhiễm và “giảm ô nhiễm do nước thải gây ra”, vì vậy phí nên được xác định căn cứ vào nồng độ chất ô nhiễm. Tuy nhiên, trong lĩnh vực vệ sinh đô thị, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải lại được quy định là dưới 10% giá nước sạch - thấp hơn mức phí thoát nước quy định trong Nghị định 88. Các hộ gia đình không thực hiện đấu nối vào hệ thống thoát nước công cộng, xả nước thải trực tiếp ra môi trường là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm nguồn nước; do vậy Nghị định 67 chưa kiểm soát ô nhiễm và tạo ra doanh thu bảo vệ môi trường hiệu quả. Mức thu phí ở các thành phố lớn và các đô thị thuộc tỉnh chênh nhau nhiều dẫn đến doanh thu từ phí cũng khác nhau. Các mức thu phí (hay phần trăm giá nước sạch) trình bày dưới đây cho thấy hiện trạng doanh thu từ phí ở Việt Nam, phí này được tính theo lượng nước tiêu thụ. ●● Hà Nội – VNĐ450/m3 ●● Hồ Chí Minh – 10% giá nước sạch; ●● Đà Nẵng – 21% giá nước sạch (2012), sẽ tăng lên 25% giá nước sạch vào năm 2015; ●● Quảng Ninh – VNĐ510/m3 ●● Đà Lạt – VNĐ1.000/m3 (2011), sẽ tăng thành VNĐ2.907/m3 vào năm 2015; ●● Buôn Ma Thuột – VNĐ200/m3 Phí được Công ty Cấp nước thu theo hóa đơn nước sạch và thường được chính quyền tỉnh/thành phố giữ lại để phân bổ cho các công ty quản lý nước thải theo ngân sách hàng năm đã được duyệt. Vì doanh thu từ phí không đủ để bù đắp chi phí vận hành, ngân sách địa phương luôn phải hỗ trợ phần thiếu hụt này. Trong quá trình viết báo cáo này, Nghị định 25/2013/NĐ-CP được Chính phủ ban hành vào tháng 03/2013 thay thế Nghị định 22 67. Ngoài ra trong tháng 05/2013, Thông tư 63/2013/TTLT cũng được ban hành để hướng dẫn thực hiện Nghị định 25. Nghị định 25 phân biệt phí bảo vệ môi trường và phí nước thải. Nhà nước thu phí bảo vệ môi trường từ các cơ sở sản xuất công nghiệp và các hộ gia đình xả nước thải ra môi trường. Đối với nước thải sinh hoạt; các nhà máy xử lý nước thải và hộ gia đình chưa đấu nối vào hệ thống công thoát nước công cộng phải trả phí bảo vệ môi trường với mức không cao hơn 10% giá nước sạch. Do mức 10% giá nước sạch rất thấp, không đủ để đảm bảo thu hồi chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống quản lý nước thải, quy định này không khuyến khích hộ gia đình thực hiện đấu nối vào mạng lưới thoát nước. Nghị định 88 nhiều khả năng sẽ được đổi tên “phí nước thải” thành “phí dịch vụ thu gom và xử lý nước thải”. Nhà nước thu phí này từ tất cả các đối tượng sử dụng dịch vu nước thải. Tuy nhiên, hiện nay chính quyền các địa phương còn lúng túng không biết thu phí bảo vệ môi trường hay phí dịch vụ nước thải đối với đơn vị xả nước vào hệ thống thoát nước chung là kênh mương, sông hở tại khu vực chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải. Nghị định 88 (bản sửa đổi) cần khắc phục hạn chế này. 104 phụ lục Tùy vào mức độ quan tâm của chính quyền địa phương đối với hoạt động bền vững của công trình quản lý nước thải mà cách thức này tỏ ra hiệu quả hay không (trên thực tế, một số trường hợp không hiệu quả). Khi cần thay thế thiết bị hay tình huống khẩn cấp xảy ra ngoài dự kiến, công ty vận hành công trình gặp khó khăn do ngân sách hàng năm không có khoản này. Khi đó công ty phải xin chính quyền địa phương phê duyệt vốn, làm chậm tiến độ sửa chữa, không cung cấp dịch vụ được và có thể khiến hệ thống không hoạt động được nếu không xử lý kịp thời. Rõ ràng tài trợ và hỗ trợ của nhà nước không giúp cải thiện dịch vụ và thúc đẩy ngành vệ sinh phát triển hiệu quả. Trong hầu hết trường hợp, nhà nước chỉ hỗ trợ nhu cầu ngân sách cơ bản, nghĩa là đủ để duy trì hoạt động chứ không nhằm mục đích mở rộng phạm vi hay cải thiện chất lượng dịch vụ vệ sinh. Hiện nay, việc mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ vệ sinh do các nhà tài trợ/tổ chức cho vay quốc tế hỗ trợ. Ngân sách địa phương còn hạn chế và hầu hết các địa phương không ưu tiên mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ. 5. Tóm tắt hiện trạng thu hồi chi phí của các công ty thoát nước đô thị ở Việt Nam Hầu hết các công trình quản lý nước thải đang hoạt động ở Việt Nam không thu hồi được đầy đủ chi phí. Dựa trên số liệu do các công ty vận hành công trình cung cấp, phần dưới đây cho biết mức độ chi phí thu hồi từ phí thoát nước và phí bảo vệ môi trường (đơn vị: % chi phí hoạt động): Bảng C4: Ví dụ về các mức thu hồi chi phí khác nhau tại các công ty Công ty Phần trăm chi phí thu hồi được Công ty Thoát nước Hà Nội 25[1] Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng (Đà Lạt) 17,6 Công ty Quản lý đô thị và môi trường (Buôn Ma Thuột) 28,3 Chi chú: [1] Số liệu này được ước tính qua buổi làm việc của nhóm tư vấn với Công ty Thoát nước Hà nội. 6. Kiến nghị cải thiện thu hồi chi phí thoát nước đô thị Cải thiện khung chính sách pháp luật Như đã đề cập ở trên, chính quyền các địa phương lúng túng không biết áp dụng Nghị định 67 hay Nghi định 88 khi xác định mức phí. Tình trạng này xảy ra phổ biến và các Bộ chịu trách nhiệm soạn thảo các Nghị định này đã tiến hành nghiên cứu sửa đổi Nghị định nhằm giúp các địa phương hiểu và tránh nhầm lẫn. Đây là hoạt động cần thiết nhằm thiết lập khung quy định giúp các địa phương xây dựng mức thu phí, nâng cao hiệu quả thu hồi chi phí. Thay vì quy định tỷ lệ tối đa tính trên giá nước sạch, nhà nước nên đưa ra một số mức thu phí để công ty vận hành công trình quản lý nước thải có thể linh hoạt xác định mức thu phí phù hợp với chi phí hoạt động của mình. Sẵn sàng tính phí dịch vụ Chính quyền thành phố/tỉnh chưa muốn tính đủ chi phí khi thu phí dịch vụ. Điều này thể hiện rõ nét ở thành phố Buôn Ma Thuột, ở đây dịch vụ thoát nước của doanh nghiệp vận hành công trình được đánh giá cao và người dân sẵn sàng đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng khi hệ thống này được mở rộng ở giai đoạn sau. Tuy nhiên, ngay cả khi người dân hài lòng như vậy, chính quyền Buôn Ma Thuột cũng chưa thực hiện các hoạt động để cải thiện hiệu quả thu hồi chi phí, vẫn quyết định hỗ trợ chi phí vận hành từ ngân sách địa phương. Quan điểm không muốn tăng phí này là kết quả của cơ chế quản lý nhà nước trước 105 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam đây vốn luôn trợ cấp cho các hoạt động thiếu vốn. Gây áp lực lên ngân sách địa phương có thể làm thay đổi quan điểm này nhưng sẽ mất nhiều thời gian và cần có quyết tâm chính trị. Nếu muốn thu hồi được chi phí, cần thay thế quan điểm dựa vào trợ cấp của nhà nước bằng quan điểm sẵn sàng tăng mức thu phí để đảm bảo doanh thu từ phí thu hồi được đầy đủ chi phí. Nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích của dịch vụ vệ sinh Để thu hồi chi phí hiệu quả, người sử dụng dịch vụ cũng cần sẵn sàng chi trả phí. Người dân chỉ sẵn sàng trả phí nếu họ nhận thức được và đánh giá cao lợi ích dịch vụ vệ sinh mang lại. Cần thực hiện các chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân về hệ thống quản lý nước thải, lợi ích dịch vụ này mang lại và hành vi vệ sinh. Các công trình quản lý nước thải ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột đã thực hiện hiệu quả hoạt động này, và gia tăng nhu cầu ở các khu vực chưa được cung cấp dịch vụ. Hiện nay khách hàng ở các khu vực này hiểu về các vấn đề vệ sinh và đánh giá cao các lợi ích họ được hưởng. Xây dựng được nhận thức như vậy cho khách hàng sẽ giúp thiết lập môi trường lý tưởng để người dân sẵn sàng trả phí dịch vụ. Duy trì chi phí hoạt động ở mức hợp lý Cũng như các lĩnh vực kinh doanh khác, cần vận hành các công trình quản lý nước thải một cách hiệu quả vì cuối cùng thì người dân sẽ trả tất cả các chi phí hoạt động dưới hình thức phí dịch vụ bên cạnh trợ cấp của nhà nước. Hoạt động hiệu quả không có nghĩa là doanh nghiệp cắt giảm hay bỏ qua các hoạt động vận hành, bảo dưỡng cần thiết vì chúng giúp cải thiện đánh giá của người dân về lợi ích dịch vụ mang lại và họ sẵn sàng trả phí cho các lợi ích này. Để người dân tin tưởng và tối đa hóa hiệu quả thu hồi chi phí, cần nghiên cứu và thiết kế hệ thống quản lý nước thải phù hợp với đặc điểm và điều kiện địa phương, tránh xây dựng công trình quá phức tạp, vượt quá khả năng của địa phương, trừ trường hợp thật sự cần thiết. Giảm thiểu chi phí hoạt động (chi phí điện, hóa chất, nhân công, v.v.) bằng cách lựa chọn công nghệ phù hợp khi thiết kế công trình sẽ mang lại lợi ích và kết quả lâu dài trong những năm vận hành sau đó. Do vậy, giảm thiểu chi phí bằng cách lựa chọn hệ thống thu gom và xử lý phù hợp là bước đầu tiên để tiến tới thu hồi chi phí hiệu quả. Sẵn sàng chi trả Người dân được thông tin đầy đủ từ chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông, đơn vị quản lý nước thải cung cấp dịch vụ có chất lượng và mang lại lợi ích cho khách hàng là điều kiện thuận lợi để người dân sẵn sàng chi trả chi phí dịch vụ vì họ hiểu các dịch vụ này mang lại giá trị hữu hình. Khi khách hàng sẵn sàng chia sẻ gánh nặng chi phí vận hành hệ thống quản lý nước thải, công ty thoát nước sẽ bớt phụ thuộc vào trợ cấp của nhà nước, có thể thu hồi chi phí và hoạt động bền vững về tài chính. 106 phụ lục NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH 3: ĐẤU NỐI HỘ GIA ĐÌNH 1. Giới thiệu và Phạm vi Nghiên cứu này đánh giá vai trò của đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước ở Việt Nam. Đây là một khía cạnh vệ sinh đô thị thường chưa được hiểu đúng và bỏ qua nhưng lại đóng vai trò thiết yếu, ảnh hưởng đến sự hoạt động thành công của sơ đồ vệ sinh đô thị. Nghiên cứu này sẽ được trình bày như sau: Phần đầu trình bày các yếu tố cấu thành đấu nối hộ gia đình; Phần 2 trình bày hiện trạng hoạt động đấu nối hộ gia đình ở các đô thị Việt Nam; Phần 3 trả lời một số câu hỏi cơ bản về đấu nối hộ gia đình; và Phần 4 đưa ra các kiến nghị để cải thiện hoạt động vệ sinh đô thị này trong tương lai. 2. Khái niệm Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước đô thị Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước của đô thị là lắp đặt ống để kết nối hộ gia đình/tổ chức thương mại (sau đây gọi chung là “hộ gia đình”) với hệ thống thoát nước công cộng, thu gom và vận chuyển nước thải đi xử lý và xả thải. Có thể chia đấu nối hộ gia đình thành hai nhóm chính: đấu nối vào hệ thống thoát nước chung (tiếp nhận cả nước thải và nước mưa) và đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng (không tiếp nhận nước mưa). Hệ thống thoát nước chung là phương thức thu gom nước thải phổ biến nhất ở các đô thị Việt Nam. Hầu hết các thành phố, thị xã cấp tỉnh được khảo sát trong đợt đánh giá này đều sử dụng hệ thống này. Hệ thống này được sử dụng rộng rãi nhờ tính tiết kiệm và thuận tiện của nó, vì tất cả các thành phố và thị xã đều phải thoát nước mưa để tránh bị ngập úng nên mạng lưới đường ống thoát nước mưa thường được lắp đặt từ khi bắt đầu xây dựng hệ thống đường bộ kết nối đô thị này với các khu vực xung quanh. Người dân xây nhà trên các phố và cần xả nước thải. Nếu nền đất không có khả năng thấm nước thì nước thải phải xả ra bên ngoài. Hiển nhiên giải pháp thuận tiện nhất là ống/mương thoát nước mưa xây dựng bên lề đường ngay trước nhà. Hoạt động đấu nối này đã và sẽ tiếp tục được thực hiện một cách không chính thức, không có sự cho phép và giám sát của chính quyền. Do vậy, không thể xác định chắc chắn bao nhiêu hộ gia đình đã đấu nối vào hệ thống thoát nước. Ở Đà Nẵng, hiện thành phố đang thực hiện một chương trình thí điểm đấu nối hộ gia đình ở khu vực trung tâm vào hệ thống thoát nước chung. Tuyến ống cấp 3 (D150) được lắp ở lề đường và các hộ gia đình thực hiện kết nối vào hệ thống này thông qua một hộp đấu nối hộ gia đình ở ngay bên ngoài nhà. Cứ 50-100m thì đường ống cấp 3 này lại có ống nối vào mạng lưới thoát nước chung. Ngành Xây dựng quy định tất cả các công trình nhà ở Việt Nam phải có hệ thống xử lý tại chỗ, thường là bể tự hoại, để lắng cặn nước thải. Cần lưu ý điều này trong hoạt động đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước chung vì nước thải hộ gia đình đã được xử lý sơ bộ tại chỗ trong bể tự hoại trước khi xả vào hệ thống thoát nước chung, do vậy nồng độ chất hữu cơ giảm và có thể gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống thoát nước chung. Đường ống thoát nước chung trước đây được xây dựng với độ dốc tối thiểu hay bằng phẳng, dẫn đến tình trạng lắng bùn cặn/rác thải khi chúng chảy vào hệ thống. Do vậy, các hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước chung bắt buộc phải xây dựng công trình vệ sinh tại chỗ và công trình này phải hoạt động có hiệu quả. Mặc dù hoạt động của các công trình vệ sinh tại chỗ là chủ đề của nghiên cứu về quản lý bùn thải nhà vệ sinh, nhưng có thể khẳng định rằng nếu không bảo dưỡng bể tự hoại thường xuyên, công trình này sẽ không lắng bùn hiệu quả và do vậy sẽ không thực hiện tiền xử lý trước khi xả nước thải vào hệ thống thoát nước chung. 107 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Tóm lại, hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước chung cần phải xây dựng công trình vệ sinh tại chỗ hoạt động được (bể tự hoại) và xả nước thải đã được xử lý sơ bộ vào đường ống thoát nước chung ở trước nhà hay vào tuyến ống thu gom cấp 3 thông qua hộp đấu nối hộ gia đình như trong các hệ thống mới xây dựng gần đây. Dù xả vào đường ống nào, nếu không nằm trong một chương trình đấu nối cụ thể như ở Đà Nẵng thì các hộ gia đình khi có nhu cầu sẽ đấu nối bằng ống PVC D110 vào mạng lưới mà không cần xin phép chính quyền địa phương. Ở Việt Nam, hệ thống thoát nước riêng ít phổ biến hơn nhưng hiện đang được quan tâm và sử dụng ở các khu vực ven đô mới xây dựng, do hệ thống này chỉ thu gom nước thải vào mạng lưới ống cống kín. Nhờ vậy, hệ thống này không gây ô nhiễm mùi. Hệ thống thoát nước riêng chỉ đấu nối với các hộ gia đình, do vậy rác thải và nước mưa không thể chảy vào mạng lưới này. Khi không gây ô nhiễm mùi, các công trình vệ sinh đô thị được người dân địa phương đánh giá cao. Việt Nam có hai hệ thống thoát nước riêng đang hoạt động ở thành phố Đà Lạt và Buôn Ma Thuột, cả hai hệ thống đều bắt đầu vận hành trong năm 2006. Một hệ thống thoát nước riêng quy mô nhỏ hơn ở Châu Đốc (đồng bằng sông Cửu Long) mới đi vào hoạt động năm 2011 và vẫn đang thực hiện đấu nối hộ gia đình. Trong nghiên cứu về đấu nối hộ gia đình này, các hệ thống ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột cho ta nhiều thông tin, bài học và kinh nghiệm đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng. Hệ thống thoát nước riêng được xây dựng dựa trên ba loại tuyến cống thu gom nước thải là thu gom sơ cấp, thứ cấp và cấp 3. Tuyến ống thu gom cấp 3 được xây dựng ở lề đường trước nhà (nếu có đủ diện tích để xây dựng). Cống thu gom cấp 3 có kích cỡ D150 – D200 tiếp nhận nước thải của từng hộ gia đình chảy từ hộp đấu nối đặt ở ngay ngoài nhà qua thiết bị đấu nối hình chữ Y. Cứ 50 – 150m, đường ống thu gom cấp 3 lại nối vào tuyến ống thu gom thứ cấp, do vậy độ chôn ống cấp 3 khá nông. Đường ống thu gom thứ cấp được xây dựng dưới mặt đường giao thông, kích cỡ tối thiểu là D200 và cứ 50-60m lại có hố ga kích cỡ D1000 – D1200 để bảo trì. Đường ống thu gom cấp 3 thường kết nối với đường ống thứ cấp tại các hố ga này, do vậy nó cũng kết nối với các đường ống khác ở đây. Cuối cùng, đường ống thu gom thứ cấp kết nối vào các cống thoát nước sơ cấp, kích cỡ D300 hay lớn hơn; cống này đưa nước thải về xử lý ở nhà máy và sau đó xả ra môi trường. Cống thu gom sơ cấp đóng vai trò là cống trung chuyển, nhận nước thải từ mạng lưới thu gom thứ cấp. Theo thiết kế thì hệ thống thoát nước riêng chỉ thu gom nước thải phát sinh từ các hộ gia đình, không lẫn nước mưa và rác thải. Hệ thống này được thiết kế thủy lực với độ dốc phù hợp đảm bảo nước thải tự chảy trong đường ống, do vậy hạn chế được các vấn đề liên quan đến lắng bùn cặn. Thường thì hệ thống này có tốc độ dòng chảy đạt 0,75m/giây để tránh lắng bùn cặn. Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước riêng có yêu cầu khác so với khi đấu nối vào hệ thống thoát nước chung. Một đặc điểm quan trọng là đây là hệ thống kín hoàn toàn, bao gồm các đường ống kích thước khác nhau được lắp đặt có độ dốc để đảm bảo nước tự chảy và hạn chế lắng bùn cặn. Điều đó có nghĩa là hệ thống thoát nước riêng có thể hoạt động tốt ngay cả khi có chất rắn trong nước đầu vào, cho phép hộ gia đình xả chất thải vệ sinh (cả nước xám và nước đen) vào hệ thống này mà không cần xử lý trước. Do vậy, hộ gia đình đấu nối vào hệ thống này không cần xây dựng bể tự hoại. Đây là thuận lợi lớn cho các hộ gia đình vì họ không phải quản lý bùn thải nhà vệ sinh và xử lý các vấn đề bơm hút, thông tắc và tràn ứ bể tự hoại. Toàn bộ chất bẩn trong nước thải hộ gia đình được vận chuyển đến nhà máy xử lý nước thải tập trung, do vậy nhà máy hoạt động hiệu quả nhờ đủ tải trọng. 108 phụ lục Có thể thực hiện đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước riêng dễ dàng khi xây nhà bằng cách lắp đặt đường ống dẫn nước ra hộp đấu nối và kết nối vào ống thu gom nước cấp 3. Các công trình xây mới không cần xây bể tự hoại nếu kết nối trực tiếp vào hệ thống thoát nước riêng. Tuy nhiên, đối với các công trình đã có, khi đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng sẽ phải đào nền nhà do nhà bếp/nhà vệ sinh/bể tự hoại thường nằm ở phía sau nhà trong khi điểm đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng lại thường nằm phía trước nhà. Nếu trước đây chưa có đường ống dẫn nước từ nhà vệ sinh ra hệ thống thoát nước chung thì phải tiến hành lắp đặt đường ống này để đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng. Các hộ gia đình thường có bể tự hoại, do vậy cần bố trí lại đường ống tránh tiếp nhận nước từ bể tự hoại hay điều chỉnh để nước thải từ bể tự hoại chảy thẳng ra hệ thống thoát nước riêng. Tuy nhiên, trong phương án kết nối với bể tự hoại nói trên, bể tự hoại phải hoạt động, được bảo dưỡng định kỳ, do đó phát sinh chi phí vận hành. Tóm lại, khi đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng, các hộ gia đình có thể xả nước thải trực tiếp mà không cần xử lý sơ bộ. Không cần xây dựng công trình bể tự hoại để xử lý tại chỗ vì hệ thống thoát nước riêng có thể tiếp nhận nước thải chưa qua xử lý. Nhà dân đã xây dựng cần điều chỉnh lại đường ống dẫn nước thải trong nhà để không tiếp nhận nước từ bể tự hoại hoặc có thể tiếp tục nhận nước từ bể tự hoại. Các công trình mới có thể đấu nối trực tiếp vào hệ thống thoát nước riêng mà không cần xây dựng bể tự hoại. Đấu nối hộ gia đình được thực hiện bằng cách lắp đặt đường ống dưới nền nhà dẫn nước thải ra hộp đấu nối đặt ở ngoài nhà. Từ đó đường ống này sẽ kết nối vào mạng lưới thu gom nước cấp 3 (nếu có) hoặc vào đường ống thu gom thứ cấp nếu không có đủ đất để xây dựng mạng lưới thu gom cấp 3. Đấu nối hộ gia đình vào mạng lưới thoát nước riêng phải được cấp có thẩm quyền cho phép và do hộ gia đình thực hiện. Cần đảm bảo công tác đấu nối được thực hiện đúng kỹ thuật và đảm bảo chất lượng, quan trọng nhất là đường ống thu gom nước thải trong gia đình không được thu các loại nước khác, ví dụ như nước mưa từ mái nhà, vì nếu thu cả nước mưa này thì hệ thống thoát nước riêng sẽ bị quá tải khi trời mưa. 3. Hiện trạng công tác đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước đô thị ở Việt Nam Đấu nối hộ gia đình vào mạng lưới thoát nước có thể được phân chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 là đấu nối không được kiểm soát, tùy theo nhu cầu của hộ gia đình vào hệ thống thoát nước chung chạy qua trước nhà; Nhóm 2 là đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng bằng cách đấu nối vào đường ống thu gom cấp 3 ở lề đường sau khi được cấp có thẩm quyền cho phép thi công, đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng. Hai cách đấu nối này có các đặc điểm rất khác nhau. Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước chung.Hoạt động đấu nối vào hệ thống thoát nước chung thường không được quy định, kiểm soát và chất lượng không đảm bảo. Công trình đấu nối thường không có hộp đấu nối để kiểm tra chất lượng nước thải đầu vào cũng như để làm vệ sinh đường ống. Hộ gia đình chỉ chú ý dẫn nước thải trong nhà chảy ra ngoài và không quan tâm đến hậu quả sau khi xả nước xong. Hơn nữa, các hộ gia đình cũng cần xả nước mưa thu từ mái nhà và nước mưa ngoài trời, do đó họ có thể để nước mưa chảy vào đường ống dẫn ra hệ thống thoát nước chung. Do hoạt động đấu nối này không được kiểm soát, rất ít báo cáo có thông tin về số lượng hộ gia đình đấu nối vào mạng lưới thoát nước chung. Tuy nhiên vì nhiều đô thị đông dân như Hà Nội và Hồ Chí Minh nằm trên vùng đất không thấm nước, nhiều khả năng là các hộ gia đình ở các thành phố này thực hiện đấu nối vào đường ống thoát nước chung vì nước xả vào giếng tiêu thoát nước khó mà ngấm vào đất được. Do vậy ta có thể cho rằng nhiều hộ gia đình ở các thành phố này (90% hay nhiều hơn) thực hiện đấu nối vào đường ống thoát nước để xả nước thải. Với các thành phố như Đà Nẵng, vì thành phố này nằm trên nền đất cát, có khả năng thẩm thấu tốt, do đó nước thải từ bể tự hoại gia đình ngấm vào đất dễ dàng qua giếng thấm. Dĩ nhiên phương pháp xả nước này khi áp dụng ở khu vực đông dân của thành phố sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước ngầm. Vì vậy 109 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam chính quyền thành phố Đà Nẵng đang thực hiện dự án đấu nối hộ gia đình để khuyến khích các hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước chung bằng cách xây dựng đường ống thu gom cấp 3 ở gần hộ gia đình. Tuy nhiên dự án này có quy mô khá nhỏ với tổng số 800 hộ tham gia, vì vậy đây chỉ là dự án thí điểm để chuẩn bị thực hiện chương trình quy mô lớn hơn ở cấp thành phố. Hiện nay ở Đà Nẵng, tỷ lệ đấu nối hộ gia đình toàn thành phố còn thấp do người dân có thể dễ dàng thoát nước tại chỗ. Điều đó thể hiện qua nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào tiếp nhận từ hệ thống thoát nước chung của nhà máy xử lý nước thải. Đà Nẵng nằm trong số các thành phố có nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào thấp nhất của đợt đánh giá này, điều đó cho thấy ít hộ gia đình thực hiện đấu nối vào hệ thống thoát nước chung. Tình trạng tương tự xảy ra ở các đô thị cấp tỉnh khác có sử dụng hệ thống thoát nước chung, tùy vào tính chất của đất. Nếu đất kém, khó thoát nước tại chỗ thì các hộ gia đình sẽ thực hiện bất kỳ cách nào miễn sao thoát nước ra ngoài được, trong đó giải pháp trước tiên là đấu nối vào đường ống thoát nước chung ở trước nhà. Không thể xác định được chính xác tỷ lệ số hộ gia đình đã đấu nối, nhưng có thể chắc rằng nếu không thể thoát nước tại chỗ do tính chất của đất, các hộ gia đình sẽ đấu nối vào đường ống thoát nước chung. Tổng cộng, 13 trong số 17 nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước chung. Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước chung sẽ khác nhau, cao ở các khu vực đông dân và đất không thấm nước, thấp ở các khu vực ít dân và đất thẩm thấu tốt. Như đã nói ở trên, không thể xác định được chính xác tỷ lệ đấu nối hộ gia đình do hoạt động đấu nối được thực hiện tự phát. Vấn đề đấu nối hộ gia đình cần được xem xét trong mối quan hệ với bể tự hoại. Đây là công trình xử lý sơ bộ tại chỗ phổ biến nhất trong các hộ gia đình và tòa nhà. Trong các thập niên tới, khó xóa bỏ tình trạng sử dụng bể tự hoại để xử lý sơ bộ nước đen hay hỗn hợp nước xám và nước đen trước khi xả nước thải vào mạng lưới thoát nước chung. Do vậy, cần đảm bảo các bể tự hoại được thiết kế, thi công và quản lý đúng kỹ thuật. Phân bùn bể tự hoại cũng cần được quản lý hiệu quả. Các quy định pháp luật của chính quyền trung ương và địa phương về quản lý nước thải đô thị cần quy định rõ các nội dung này. Đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước riêng. Quy trình các hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng giúp công tác kiểm đếm, giám sát và theo dõi hoạt động đấu nối dễ dàng hơn. Ở Việt Nam, 3 trong số 16 nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động tiếp nhận nước từ hệ thống thoát nước riêng. Như đã nói ở trên, đó là các nhà máy ở Đà Lạt, Buôn Ma Thuột (vận hành từ năm 2006) và Châu Đốc (vận hành từ 2011). Dự án vệ sinh môi trường do DANIDA tài trợ ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột đều dựa vào nguyên tắc chung là sử dụng mạng lưới thoát nước riêng có đấu nối hộ gia đình. Tuy nhiên phương pháp thực hiện nguyên tắc này giữa hai dự án khá khác biệt. Ở thành phố Đà Lạt, các con phố hẹp, lối đi nhỏ và địa hình đồi núi nên không thể sử dụng đường ống thu gom cấp 3 ở hầu hết địa bàn cần thoát nước, do đó nước thải chỉ được thu gom bằng các đường ống thứ cấp ở dưới đường giao thông. Hơn nữa, người dân ở đây thường xây nhà một tầng, nằm độc lập với các công trình khác, đôi khi có bể tự hoại ở ngoài nhà (trong vườn). Vì vậy, khi thực hiện đấu nối hộ gia đình ở Đà Lạt không cần phải tránh, mà ngược lại, phải đưa nước thải bể tự hoại vào sơ đồ thoát nước chung. Quyết định như vậy là để tránh phức tạp khi phải lắp đặt lại đường ống thoát nước trong từng hộ gia đình. Nước thải từ bể tự hoại chảy qua hộp đấu nối ở ngoài nhà vào hệ thống thoát nước riêng của thành phố. Quyết định tiếp nhận nước từ bể tự hoại có nghĩa là các hộ gia đình tiếp tục sử dụng công trình vệ sinh tại chỗ, nhờ vậy lượng bùn lắng trong hệ thống thoát nước riêng giảm xuống do chất rắn đã lắng sơ bộ 110 phụ lục ở trong bể tự hoại. Hiện nay, 75% trong số 6.000 hộ gia đình dự kiến ban đầu đã thực hiện đấu nối. Tổng lượng nước thải phát sinh hàng ngày là 6.000m3/ngày. Nhờ chương trình Thông tin – Giáo dục – Truyền thông được thực hiện rộng rãi trong thời gian thực hiện dự án, cộng đồng dân cư sẵn sàng đấu nối và giờ được hưởng lợi ích do hệ thống thoát nước này mang lại. Trong quá trình đoàn đến khảo sát ở Đà Lạt, chúng tôi phát hiện một số khu vực thoát nước riêng trong thành phố bị quá tải khi mưa. Nguyên nhân là do nắp các hố ga được mở ra để giảm áp lực dòng chảy. Vì hệ thống thoát nước riêng phải hoạt động ổn định bất kể trời mưa hay trời nắng, và không được tiếp nhận nước mưa, hành vi này ở Đà Lạt thật sự đáng quan ngại. Đoàn đánh giá nhận định rằng nước mưa từ mái nhà của một số hộ gia đình đã chảy vào và gây ra tình trạng quá tải. Mặc dù đơn vị vận hành, bảo dưỡng hệ thống đã chủ động tìm cách xử lý các điểm nước mưa xâm nhập nhưng vẫn không chấm dứt được tình trạng này do khó phát hiện tất cả các điểm đó. Chính quyền thành phố đã thực hiện biện pháp khắc phục bằng cách sản xuất nắp hố ga có van một chiều và lỗ thoát để giảm bớt áp lực cao trong đường ống trong khi vẫn phòng chống được ngập úng. Tình trạng này ở Đà Lạt nêu ra một vấn đề khi đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng là phải kiểm soát chặt chẽ nước thải chảy vào hệ thống. Ở Buôn Ma Thuột, bếp và nhà vệ sinh chủ yếu ở phía sau nhà còn hệ thống thoát nước chung chạy trước nhà, vỉa hè và đường phố rộng, do vậy có thể áp dụng phương pháp khác để đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước riêng. Theo thiết kế, dự án không nhận nước thải từ bể tự hoại của các hộ gia đình mà đấu nối trực tiếp nước thải vào hệ thống thu gom cấp 3 thông qua hộp đấu nối ở trước nhà. Mặc dù việc này có nghĩa là phải kiểm tra và lắp đặt lại nhiều đường ống dẫn nước thải dưới sàn nhà, nhưng kết quả cuối cùng là các hộ gia đình không phải bảo dưỡng bể tự hoại cũng như xử lý các vấn đề liên quan đến xả nước thải nữa. Ở thành phố Buôn Ma Thuột, đến nay đã đấu nối được 4700 hộ gia đình, đạt 85% số đấu nối dự kiến trong giai đoạn thiết kế. 15% số hộ còn lại chưa đấu nối do điều kiện địa hình khiến hoạt động đấu nối trở nên không kinh tế, bắt buộc phải dùng bơm hay người dân không muốn đấu nối. Một số hộ từ chối thực hiện do không muốn hoạt động thoát nước bị gián đoạn khi tiến hành đấu nối. Mạng lưới thoát nước ở thành phố Buôn Ma Thuột sử dụng đường ống sơ cấp, thứ cấp và cấp 3 để thu gom và vận chuyển nước thải từ hộ gia đình đến nhà máy xử lý nước thải. Hình C1 dưới đây minh họa sơ đồ thiết kế và sự tham gia của người sử dụng dịch vụ đối với các hệ thống đường ống nói trên. 111 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hình C1: Sơ đồ hệ thống đường ống thoát nước CỐNG THU GOM CẤP 3 CỐNG THU GOM CẤP 3 ỐNG THU GOM CẤP 2 BẾP BẾP ĐƯỜNG ỐNG VỆ SINH NHÀ NHÀ TRONG NHÀ ĐƯỜNG PHỐ BẾP BẾP NHÀ NHÀ BẾP BẾP HỐ GA NHÀ NHÀ BẾP BẾP HỘP GIẾNG NHÀ NHÀ ĐẤU NỐI KIỂM TRA CHÚ THÍCH Đường ống vệ sinh trong nhà - vốn tư nhân Chính phủ hỗ trợ 50%, hộ dân đóng góp 50% Đường ống thu gom cấp 3 (trên vỉa hè) Vốn Chính phủ 100% Đường ống thu gom cấp 2 (lòng đường + giếng kiểm tra) Vốn Đan mạch 100% Hoạt động đấu nối hộ gia đình ở Buôn Ma Thuột được thực hiện hiệu quả. Một đội đấu nối hộ gia đình đã được thiết lập trong Ban quản lý dự án để tập huấn các hộ gia đình và nhà thầu cách thức thực hiện đấu nối hộ gia đình. Đội này cũng cấp giấy phép cho các hộ gia đình muốn đấu nối và giám sát công tác đấu nối để đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng. Quan trọng nhất là đội kiểm tra để đảm bảo độ dốc lắp đặt ống phù hợp, hộ gia đình có lắp thiết bị thông khí trên mái nhà và chặn rác để tránh gây ô nhiễm mùi và nước mưa từ mái nhà không chảy vào công trình đấu nối (Hình C2). Hình C2: Sơ đồ đấu nối hộ gia đình CỐNG THÔNG KHÍ, UPVC, D30 PHÒNG ĂN, PHÒNG TẮM, PHÒNG NGỦ PHÒNG BẾP NHÀ VỆ SINH 112 phụ lục Trên thực tế, hầu hết các đấu nối hộ gia đình được thực hiện trong vòng 2-3 ngày, tùy theo độ phức tạp. Mỗi hộ được nhận hỗ trợ bằng tiền mặt tương đương 50% chi phí đấu nối, các hộ nghèo có chứng nhận của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội được hỗ trợ 90%. Các đơn vị kinh doanh và công sở không được trợ cấp. Hình C3 mô tả các công trình đấu nối trong nhà thực hiện ở dự án Buôn Ma Thuột. Trong giai đoạn đầu thực hiện đấu nối hộ gia đình, Buôn Ma Thuột cũng gặp một số vấn đề liên quan đến nước xâm nhập vào hệ thống qua điểm đấu nối do người dân không hiểu là không được thu gom nước mưa từ mái nhà. Sau đó, nguyên nhân này được phát hiện và giải quyết, xóa bỏ các điểm đấu nối không phù hợp. Tuy nhiên trong đợt khảo sát gần đây, Đoàn khảo sát đã phát hiện vấn đề tương tự đang xảy ra ở khu vực Trạm bơm Tân Tiến. Trạm bơm này có lưu lượng nước lớn khi trời mưa, và giảm nhanh chóng khi ngừng mưa. Ban quản lý dự án đang điều tra vấn đề này và thực hiện các biện pháp để xác định và xóa bỏ các điểm đấu nối không phù hợp. Hình C3: Một số hình ảnh thi công đấu nối trong nhà Đấu nối trong nhà - Lắp ống Đấu nối trong nhà - Kiểm tra 4. Kết luận và Kiến nghị để cải thiện công tác đấu nối hộ gia đình Đấu nối hộ gia đình rất quan trọng đối với sự hoạt động của các hệ thống thu gom nước thải, tuy nhiên vấn đề này thường chưa được nhận thức đúng về thứ tự ưu tiên thực hiện và trường hợp áp dụng. Nhiều hệ thống thoát nước chung đang vận hành ở Việt Nam hoạt động không hiệu quả do chưa thực hiện đấu nối hộ gia đình dẫn dến tình trạng nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải tiếp nhận ở nhà máy xử lý thấp. Nồng độ chất ô nhiễm thấp trong nước thải khiến các nhà máy xử lý vốn được thiết kế để xử lý nước thải có nồng độ cao hơn hoạt động dưới công suất dự kiến. Ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam và các đô thị cấp tỉnh, đấu nối hộ gia đình thường được thực hiện tự phát, theo nhu cầu xả nước thải của hộ gia đình hơn là theo quy định của nhà nước. Các đấu nối này thường được thực hiện không đúng kỹ thuật, không đảm bảo và không có công trình kiểm tra/bảo dưỡng để đảm bảo hoạt động bền vững. 113 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Quy định thể chế Cần cải thiện các quy định về chất lượng và số lượng đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước, dù là hệ thống thoát nước chung hay riêng để có thể khai thác tối đa hạ tầng nước thải công cộng. Có thể bắt đầu bằng cách ban hành các quy định có hiệu lực thi hành bắt buộc tất cả các hộ gia đình, các đơn vị kinh doanh và công sở trong phạm vi mạng lưới thu gom nước thải phải đấu nối vào hệ thống. Ngoài ra, cần quy định cấp phép và giám sát hoạt động đấu nối hộ gia đình để đảm bảo chất lượng lâu bền. Có thể học hỏi chính sách đấu nối hộ gia đình đã thực hiện ở Buôn Ma Thuột, vì chương trình này đã được thực hiện khá thành công với tỷ lệ hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng cao. Nhận thức xã hội Nhận thức cộng đồng về yêu cầu phải đấu nối hộ gia đình vào hệ thống thoát nước công cộng đóng vai trò quan trọng để cải thiện hiệu quả công tác này. Các chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông được thiết kế và thực hiện hiệu quả trong thời gian thực hiện dự án và kéo dài sau khi kết thúc dự án có thể nâng cao nhận thức của người dân về các vấn đề vệ sinh môi trường. Đây là kinh nghiệm của dự án ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột, các cộng đồng có chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông thực hiện trong 5 năm dự án và kéo dài sau đó đã ủng hộ tích cực chương trình vệ sinh cũng như hoạt động đấu nối vào hệ thống thoát nước. Theo nhận định của chính quyền Buôn Ma Thuột với Đoàn đánh giá, 6 năm sau khi dự án kết thúc, nhận thức này vẫn chứng minh tác dụng khi người dân ở các khu vực mới phát triển của thành phố mong chờ đấu nối vào hệ thống đường ống thoát nước khi hệ thống này được mở rộng trong giai đoạn II của dự án. Hỗ trợ tài chính Cam kết hỗ trợ tài chính của chính quyền địa phương đối với hoạt động đấu nối hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của các hoạt động giai đoạn I trong dự án ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuột. Hỗ trợ tài chính (50% chi phí thực hiện đấu nối) có tác dụng giảm bớt các chỉ trích về tác động của dự án lên hộ gia đình nghèo. Ngoài ra do dự án Buôn Ma Thuột đòi hỏi các gia đình phải tự bố trí lại nhiều đường ống thoát nước trong nhà, khoản hỗ trợ tài chính này là cần thiết để khuyến khích cộng đồng tham gia thực hiện. Trong giai đoạn II, chính quyền dự kiến tiếp tục hỗ trợ về mặt tài chính ở mức độ nhất định nhằm đảm bảo chương trình thành công. Tại các thành phố yêu cầu hộ gia đình đấu nối vào hệ thống thoát nước chung, có thể áp dụng nguyên tắc trên để khuyến khích cộng đồng ủng hộ chương trình, đặc biệt khi các hộ gia đình đang sử dụng các công trình xả nước thải tại chỗ, ví dụ như hố tiêu thoát nước bên dưới nền nhà, vì khi đó các hộ gia đình phải bố trí lại đường ống thoát nước trong nhà, có thể khiến họ gặp khó khăn về tài chính và sinh hoạt. Hỗ trợ kỹ thuật Là một phần của chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông, cần nâng cao nhận thức cộng đồng về các khía cạnh kỹ thuật của hoạt động đấu nối hộ gia đình để họ có thể quyết định cách thức thực hiện đấu nối cho phù hợp. Hầu hết các hộ gia đình thuê đơn vị khác thi công hoặc tự xây dựng nếu có khả năng. Nắm được các vấn đề cơ bản như kích cỡ đường ống, loại đường ống, độ dốc lắp đặt ống, điểm bảo dưỡng và làm vệ sinh, lỗ thoát khí, tắc nghẽn do rác thải và trong trường hợp đấu nối vào mạng lưới thoát nước riêng, yêu cầu không được thu gom nước mưa là những kiến thức kỹ thuật quan trọng đảm bảo đấu nối thành công. Sách hướng dẫn, video hướng dẫn (và phát sóng trên truyền hình), bảng thông báo, mô hình 3D và thảo luận theo nhóm trong các khu vực trọng tâm là các công cụ tuyên truyền hiệu quả có thể sử dụng trong chiến dịch Thông tin – Giáo dục – Truyền thông để nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề kỹ thuật. 114 phụ lục NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH 4: QUẢN LÝ PHÂN BÙN BỂ TỰ HOẠI 1. Bối cảnh vệ sinh đô thị Ước tính 65% dân số Việt Nam sử dụng công trình vệ sinh trên toàn quốc. Tỷ lệ này ở khu vực đô thị là 88%, ở nông thôn là 56% (WHO/UNICEF, 2008). Tỷ lệ xử lý nước thải còn rất hạn chế, khoảng 90% lượng nước thải đô thị của Việt Nam chưa được xử lý (Nguyễn V. A., 2007). Bể tự hoại được sử dụng như công trình xử lý nước thải tại chỗ trong các khu vực dân cư từ cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đến Việt Nam (Nguyễn V. A., 2007). Nhờ tính đơn giản và vận hành ổn định, bể tự hoại đã được người dân sử dụng rộng rãi và trở thành công trình cơ bản của hạ tầng vệ sinh đô thị Việt Nam. Trên 77% hộ gia đình ở các thành phố và thị xã cấp tỉnh, 40% thị trấn cấp huyện và 19% hộ dân ở khu vực nông thôn sử dụng bể tự hoại (WHO/UNICEF, 2008 và ADB, 2006) Việt Nam cho phép các hộ gia đình đấu nối trực tiếp vào đường ống thoát nước, không cần qua bể tự hoại, nếu khu vực đó đã xây dựng hệ thống thoát nước riêng và nhà máy xử lý nước thải tập trung/cụm công trình xử lý nước thải. Quy định này chủ yếu áp dụng ở các khu đô thị mới xây dựng. Ở các khu vực đã hình thành từ trước, hầu hết nước thải được xả trực tiếp vào cống/mương thoát nước chung dẫn ra nguồn tiếp nhận nước, do vậy bể tự hoại vẫn đóng vai trò quan trọng như là công trình xử lý sơ bộ nước thải ở các khu vực sử dụng hệ thống thoát nước chung. 2. Thiết kế bể tự hoại Tiêu chuẩn quốc gia về thiết kế hệ thống nước thải chủ yếu áp dụng cho khu vực đô thị quy định các tiêu chí kỹ thuật và tiêu chuẩn về kích thước và thiết kế bể tự hoại. Bộ Y tế đã ban hành văn bản Hướng dẫn thiết kế, lắp đặt và vận hành, bảo dưỡng bể tự hoại. Bộ Xây dựng cũng đang soạn thảo Quy chuẩn thiết kế và xây dựng bể tự hoại. Bể tự hoại ở các đô thị Việt Nam thường được xây bằng gạch (trong gia đình), hoặc bằng bê tông cốt thép (trong gia đình, tòa nhà). Bể tự hoại thường chống thấm bằng đáy bê tông và trát vữa xi măng. Bể thường gồm hai hay ba ngăn. Ngăn đầu tiên là ngăn chứa, chiếm 2/3 dung tích của bể; ngăn này chứa nước thải đầu vào để lắng cặn và xử lý kỵ khí. Tổng dung tích của bể tự hoại gia đình thường từ 1,5 – 5 m3 tùy diện tích và khả năng tài chính của gia đình đó. Hầu hết các bể tự hoại gia đình ở đô thị chỉ tiếp nhận nước đen. Nước xám từ nhà bếp, phòng tắm và bồn rửa thường được xả trực tiếp vào cống thoát nước của thành phố mà không qua bể tự hoại. Bùn thải bể tự hoại hầu như không được nạo vét thường xuyên. Cơ quan quản lý chưa kiểm soát, bắt buộc các hộ dân tiến hành nạo vét định kỳ bùn thải nhà vệ sinh. Hiệu quả xử lý BOD và chất rắn lơ lửng của bể tự hoại thường đạt từ 0 đến 50%, tùy theo thiết kế bể tự hoại, dạng xả nước, thói quen thông hút bùn, v.v. (Nguyễn V. A., 2007, Harada H. và cộng sự, 2012). Do nhiều thành phố chưa đủ khả năng đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung, bể tự hoại gia đình vẫn tiếp tục là công trình xử lý sơ bộ quan trọng. 3. Thu gom và xử lý bùn thải từ công trình vệ sinh Các hộ gia đình trả phí dịch vụ thông hút bể tự hoại khi đầy, thường thực hiện 1-10 năm/lần. Các doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ này. Do thiếu công trình xử lý, các đơn vị cung cấp dịch vụ này thường đổ bùn thải nhà vệ sinh trái phép vào đường ống thoát nước, ao nuôi cá và sông hồ. 115 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hiện nay Việt Nam chưa có luật quy định hoạt động thu gom và xử lý bùn thải nhà vệ sinh. Các nhà cung cấp dịch vụ thông hút bùn thải ở đô thị chỉ cần đăng ký giấy phép kinh doanh để thành lập công ty và tiến hành kinh doanh. Chính phủ chưa phân công đơn vị quản lý bùn thải vệ sinh và chưa ban hành văn bản hướng dẫn. Vì vậy chưa khuyến khích chính quyền địa phương quan tâm quản lý bùn thải nhà vệ sinh, đầu tư vận hành công trình xử lý hay hỗ trợ các dự án khi hết vốn tài trợ ODA (AECOM & SANDEC, 2010). Các đơn vị công ích thu gom bùn thải nhà vệ sinh thường cũng thu gom cả rác thải nên họ thường chôn bùn thải vệ sinh ở bãi chôn lấp, mặc dù các quy định nhà nước về quản lý chất thải rắn không đề cập gì đến bùn thải nhà vệ sinh. Bộ Y tế hiện đang soạn thảo văn bản hướng dẫn xử lý chất thải vệ sinh thành phân bón dựa trên hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2006 “Tập 4: Sử dụng chất thải của người và nước xám trong nông nghiệp” trong “Hướng dẫn sử dụng an toàn nước thải, chất thải của người và nước xám”. Tài liệu này nói rõ bùn thải nhà vệ sinh có thể được xử lý để tái sử dụng một cách bền vững và mang lại lợi nhuận (AECOM & SANDEC, 2010). Luật của Việt Nam vẫn chưa quy định về hoạt động thu gom, xử lý và thải bùn nhà vệ sinh. Bùn thải nhà vệ sinh ở Việt Nam vẫn là nhân tố gây ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát. Tình trạng này sẽ trở nên xấu hơn nữa vì quá trình đô thị hóa vẫn đang tiếp diễn và bể tự hoại tiếp tục được xây dựng ở các khu dân cư mới như là công trình xử lý sơ bộ hiệu quả và phổ biến nhất. Hiện có các cách xử lý và thải phân bùn như sau: ●● Doanh nghiệp nhà nước: -- Phối trộn với chất thải hữu cơ để sản xuất và bán sản phẩm phân vi sinh; -- Phối hợp xử lý với nước thải ở nhà máy xử lý nước thải tập trung; -- Phối hợp xử lý với bùn ở nhà máy xử lý tập trung; -- Tách nước bằng cách nén bùn, phơi và bán ra ngoài thị trường hoặc đem chôn; -- Chôn ở bãi chôn lấp hợp vệ sinh của thành phố; ●● Doanh nghiệp tư nhân: -- Phối trộn với chất thải hữu cơ để sản xuất phân vi sinh và bán sản phẩm; -- Đổ trái phép ở chỗ trống, vào cống thoát nước, kênh mương và nguồn nước; -- Bán bùn thải cho các trang trại (để làm phân bón, thức ăn cho cá, v.v.); -- Vận chuyển đến nhà máy xử lý nước thải tập trung để phối hợp xử lý với nước thải hay bùn; và -- Chôn ở bãi chôn lấp của thành phố. 116 phụ lục Bảng C5: Mô hình quản lý phân bùn tại một số thành phố ở Việt Nam Thành phố Công trình/Quy trình xử lý Hiện trạng Hà Nội Trạm xử lý Cầu Diễn (chủ yếu xử lý rác Xử lý được 10 – 30m3/ngày (hầu hết là bùn thải nhà thải, được nâng cấp trong dự án của Tây vệ sinh công cộng do công ty Môi trường Đô thị Hà Ban Nha từ năm 2003). Nội nạo vét) trên tổng số 500m3 phát sinh mỗi ngày. Xử lý bùn thải nhà vệ sinh: hiện có 2 giải Phương án (1) không hiệu quả, phương án (2) có hiệu pháp xử lý: (1) phối trộn với chất thải quả thấp. Bùn thải sau khi lắng được mang đi chôn hữu cơ để sản xuất phân vi sinh; (2) Phân lấp. hủy yếm khí/Lắng Bùn thải nhà vệ sinh mà các đơn vị tư nhân nạo vét bị đổ trái phép vào cống thoát nước hoặc ra môi trường Hải Phòng Trạm xử lý bùn Tràng Cát (16 ha, công Công ty Thoát nước Hải Phòng thu gom 30 – 50 m3 suất thiết kế 120.000m3 bùn/năm) xây bùn/ngày được bao gồm cả nạo vét định kỳ bể tự dựng trong thời gian dự án 1B của Ngân hoại hộ gia đình (do ngân sách thành phố chi trả, bắt hàng Thế giới (vận hành từ 2004), xử đầu thực hiện từ dự án 1B của Ngân hàng Thế giới và lý bùn thải vệ sinh và bùn mương/cống vẫn tiếp tục được thực hiện) và nạo vét theo yêu cầu thoát nước. (khách hàng tự thanh toán). Quy trình xử lý: phơi bùn - ủ vi sinh (với Bùn thải sau xử lý/ ủ vi sinh được giữ lại ở trạm. Hiệu thiết bị trộn cơ khí) – sàng – bổ sung phụ quả thương mại thấp. gia – đóng gói để bán. Nước bùn được xử Bùn thải nhà vệ sinh mà các đơn vị tư nhân nạo vét bị lý trong chuỗi hồ sinh học. Chất thải còn đổ trái phép vào cống thoát nước hoặc ra môi trường lại được chôn ở bãi chôn lấp. Đà Nẵng Bãi chôn lấp Khánh Sơn. Công suất tiếp nhận hiện nay là 50m3 bùn thải nhà vệ Quy trình xử lý bùn thải nhà vệ sinh: Lắng. sinh mỗi ngày. Bùn thải nhà vệ sinh được công ty Môi Bùn thải sau khi lắng được bơm vào bãi trường Đô thị và doanh nghiệp tư nhân chở đến bãi chôn lấp. Nước bùn được xử lý trong chôn lấp Khánh Sơn và trả phí 30.000 – 50.000 VNĐ/m3. các hồ sục khí cùng với nước rỉ rác từ bãi Thành phố hiện đang xây dựng dự án quản lý phân chôn lấp. bùn với sự tham gia của khối tư nhân. Hồ Chí Minh Bãi chôn lấp Đông Thạnh. Diện tích xử lý Công suất xử lý: 150 m3 bùn thải nhà vệ sinh/ngày. bùn thải nhà vệ sinh là 4.000 m2 do doanh Công ty Hòa Bình thu phí xử lý từ các xe tải chở bùn nghiệp tư nhân sản xuất phân bón Hòa đến và bán bùn thải đã ủ vi sinh cho các công ty sản Bình vận hành. xuất phân bón. Quy trình xử lý: Bể chứa bùn – Phơi bùn/ Một phần bùn thải nhà vệ sinh mà các đơn vị tư nhân tách nước bùn cơ học - ủ vi sinh – tiêu nạo vét bị đổ trái phép vào cống thoát nước và ra môi thụ. Nước bùn được xử lý cùng với nước trường. rỉ rác của bãi chôn lấp Đà Lạt Bùn thải nhà vệ sinh được xử lý ở nhà 2 – 3 xe (tải trọng 5-9 m3)/ngày máy xử lý nước thải. Bùn sau khi làm khô Không thu phí xử lý ở nhà máy xử lý nước thải (bao gồm cả bùn thải nhà vệ sinh) được ủ vi sinh và bán ra thị trường để cải tạo đất. Buôn Ma Bùn thải nhà vệ sinh được xử lý ở nhà Lượng bùn tiếp nhận từ 2 – 3 xe (tải trọng 5 – 9 m3)/ Thuột máy xử lý nước thải. ngày được xử lý ở nhà máy xử lý nước thải. Một phần bùn thải nhà vệ sinh được ủ ở Mỗi xe phải trả phí xử lý 30.000 VNĐ. các vườn cà phê. 117 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Các bên tham gia chính vào hoạt động quản lý phân bùn Hai chủ thể chính tham gia vào hoạt động quản lý phân bùn ở các thành phố là Hộ gia đình và đơn vị cung cấp dịch vụ nạo vét phân bùn là doanh nghiệp tư nhân hoặc nhà nước. Vì quản lý phân bùn không phải là hoạt động kinh doanh chính của các doanh nghiệp nhà nước nên báo cáo này chỉ phân tích các hoạt động có liên quan đến quản lý phân bùn của các đơn vị này. Ngoài hộ gia đình và đơn vị cung cấp dịch vụ thông hút bùn thải nhà vệ sinh còn có các cơ quan, tổ chức sau tham gia vào hoạt động quản lý phân bùn: ●● Cơ quan nhà nước; ●● Các đơn vị sản xuất, thương mại và công trình công cộng sử dụng dịch vụ nạo vét bùn thải nhà vệ sinh. ●● Đơn vị tái sử dụng phân bùn sau xử lý (khách hàng). Vai trò và trách nhiệm quản lý bùn thải nhà vệ sinh của các đơn vị nhà nước được quy định rõ ràng. Tuy nhiên, hoạt động thông hút, vận chuyển, xử lý và đổ thải bùn thải nhà vệ sinh của các doanh nghiệp tư nhân lại chưa được kiểm soát trong khi các doanh nghiệp này chỉ hoàn toàn hoạt động theo nhu cầu thị trường và cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, các đơn vị tư nhân luôn cố gắng giảm chi phí hoạt động, thường là bằng cách đổ trái phép bùn thải nhà vệ sinh. Nhiều đơn vị tư nhân không đăng ký kinh doanh, do vậy họ không thể hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước, không tiếp cận được vốn vay ưu đãi và hỗ trợ kỹ thuật từ bên ngoài. Quản lý phân bùn ở thành phố Hà Nội Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên Môi trường đô thị Hà Nội (Hà Nội URENCO) là công ty chịu trách nhiệm thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt, thương mại, bệnh viện, công nghiệp và xây dựng ở thành phố Hà Nội. Ngoài ra, công ty còn thực hiện nhiều hoạt động khác như làm vệ sinh nhà ở và công trình công cộng; tái chế chất thải; sản xuất các thiết bị cơ khí, thiết bị chuyên dụng và xe vận tải cơ khí; tư vấn, thiết kế và xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp; đào tạo, chuyển giao công nghệ về môi trường đô thị; xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị; kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng; xuất khẩu lao động. Công ty có 14 chi nhánh. Trạm xử Hình C4: Xe tải giả logo của Công ty Thoát nước lý chất thải Cầu Diễn là một trong những đơn vị trực Hà Nội bị phát hiện đổ trái phép bùn thải nhà thuộc chịu trách nhiệm thu gom bùn thải, thu gom và vệ sinh vào cống thoát nước thành phố xử lý rác thải thành sản phẩm phân vi sinh và chôn lấp chất thải vô cơ. Đơn vị này chủ yếu xử lý bùn thải nạo vét từ các nhà vệ sinh ở nội thành thành phố. Rác thải vận chuyển về trạm chủ yếu là từ các chợ trong thành phố. Quản lý phân bùn không phải là hoạt động kinh doanh chính của chi nhánh Cầu Diễn. Doanh thu từ dịch vụ nạo vét bùn và bán sản phẩm phân vi sinh không đủ để trang trải chi phí vận hành nhà máy. Công ty Môi trường đô thị Hà Nội phải hỗ trợ một phần tài chính cho chi nhánh Cầu Diễn. Các doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ quản lý phân bùn: Hiện có khoảng 40 doanh nghiệp tư nhân Nguồn: www.vnexpress.net, ngày 06/09/2011 118 phụ lục tham gia cung cấp dịch vụ thông hút, nạo vét bùn ở Hà Nội (Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012). Nhiều đơn vị vẫn đổ thải trái phép bùn thải nhà vệ sinh (xem hình C4). Hoạt động nạo vét bùn là hoạt động kinh doanh chính của hầu hết các đơn vị tư nhân tham gia lĩnh vực này. Một số đơn vị có thêm doanh thu từ việc sử dụng xe vào các hoạt động khác như nạo vét, vận chuyển và chôn lấp chất thải công nghiệp, chất thải xây dựng, v.v. Một số cán bộ chủ chốt của các đơn vị tư nhân trước đây công tác ở Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội hay Công ty Thoát nước Hà Nội. Điều này cho thấy dịch vụ thông hút, nạo vét bùn ở Hà Nội là hoạt động kinh doanh hiệu quả. Nhận thức cộng đồng và sự sẵn sàng chi trả: tăng cường tuyên truyền về các trường hợp cảnh sát môi trường bắt quả tang công ty thông hút bùn đổ trái phép bùn thải nhà vệ sinh và về hoạt động thông hút bùn định kỳ sẽ giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng về quản lý bể tự hoại hộ gia đình. Với mức GDP hiện nay của Hà Nội (khoảng 1.900 USD/người/năm), đối với nhiều gia đình thì chi phí 20-40 USD để nạo vét bùn bể tự hoại vẫn là cao (xem Hình C5). Cơ cấu phí dịch vụ thấp và người dân không nhiệt tình ủng hộ tăng phí nước thải khiến các thành phố có công trình xử lý bùn thải nhà vệ sinh khó vận hành công trình có hiệu quả. Hình C5: Phí dịch vụ thông hút bùn và sự sẵn sàng chi trả của người dân Hà Nội Phí dịch vụ thông hút phân bùn ở Hà Nội, USD/chuyến Sự sẵn sàng chi trả để cải thiện hiện trạng, USD/chuyến 50 20 40 15 30 10 20 5 10 0 0 Khu nghèo Cận nghèo Trung bình Thu nhập cao Thu nhập Khu nghèo Cận nghèo Trung bình Thu nhập cao Thu nhập rất cao rất cao Phí dịch vụ thông hút phân bùn, USD/chuyến Sự sẵn sàng chi trả để cải thiện hiện trạng, USD/chuyến Nguồn: Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012 Hình C6: Mô hình vệ sinh ở thành phố Hà Nội Hà Nội, khu vực đô thị và ven đô 2% 2% 1% 2% 5% 2% Nhà vệ sinh giội nước + ống thoát nước Bể tự hoại + ống thoát nước Bể tự hoại + giếng thấm hay mương hở Nhà tiêu hố xí đào VIP 86% Nhà tiêu khô 1 hay 2 ngăn Khác Nguồn: Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012 119 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Hình C6 cho thấy hiện trạng vệ sinh ở các hộ gia đình sinh sống trong khu vực đô thị và ven đô ở Hà Nội. Phổ biến nhất là nhà vệ sinh có bể tự hoại (88%), trong đó mô hình “bể tự hoại + ống thoát nước” chiếm 86% còn “bể tự hoại + giếng thấm hay kênh, mương hở” chỉ chiếm 2%. Hố xí đào chiếm khoảng 4% và được sử dụng chủ yếu ở khu vực ven đô (10% hộ gia đình ven đô). 8% dân số không thực hiện nạo vét bùn nhà vệ sinh, trong đó 5% số hộ gia đình đấu nối trực tiếp vào hệ thống thoát nước riêng (không sử dụng bể tự hoại), 2% có nhà tiêu khô và 1% không có nhà vệ sinh. Dung tích hố xí đào ở Hà Nội trung bình là 1,3m3; dung tích bể chứa, hầm cầu ở Hà Nội là 1,8m3 (thông tin thu thập khi khảo sát hiện trường, Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012). Mực nước ngầm cao và diện tích sinh sống chật hẹp trong khu vực dân cư đông là nguyên nhân chính của việc xây dựng các nhà vệ sinh hố xí đào nhỏ ở Hà Nội. Người dân ở đây phải nạo vét bùn nhà vệ sinh thường xuyên. Một số ủ bùn nhà vệ sinh hố xí đào với chất thải nông nghiệp trong vài tháng để tái sử dụng. Hầu hết các hộ gia đình không quan tâm phân bùn sẽ được chở đi đâu, được xử lý hay đổ thải. Trong tương lai cần cải thiện hoạt động nâng cao nhận thức về quản lý phân bùn hơn nữa. Hình C7: Tần suất nạo vét phân bùn ở Hà Nội Tần suất thông hút 1% 1% % không thông hút 6% 1% 1% 3% 6% % không biết 2-3 lần/năm 7% 1 năm/ lần 2 năm/ lần 10% 3 năm/ lần 4 năm/ lần 64% 5-10 năm/lần Trên 10 năm/lần Khác Nguồn: Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012 Hình trên cho thấy 64% hộ gia đình được khảo sát thực hiện nạo vét bùn bể tự hoại 5-10 năm/lần. Khoảng 1% số hộ gia đình thực hiện nạo vét 2 lần/năm, các bể tự hoại này có lẽ có dung tích rất nhỏ hoặc bị đầy. Tần suất nạo vét bùn bể tự hoại ở Hà Nội trung bình là 6,2 năm/lần. Phân bùn do chi nhánh Cầu Diễn (còn gọi là Công ty Môi trường đô thị Hà Nội số 7) hầu hết là từ các nhà vệ sinh công cộng. Chất thải rắn chở về chi nhánh Cầu Diễn hầu hết là từ các chợ trong thành phố. Nhà máy được xây dựng từ năm 1992, cải tạo vào năm 2002 sử dụng vốn vay ODA của Tây Ban Nha. Công suất thiết kế của nhà máy ủ vi sinh Cầu Diễn là 13.600 tấn/năm. Phân bùn là thành phần phụ dùng để phối trộn với rác thải hữu cơ từ các chợ trong quá trình ủ vi sinh. Về lý thuyết, việc bổ sung phân bùn vào quá trình ủ vi sinh theo tỷ lệ bùn/chất thải hữu cơ phù hợp sẽ tạo môi trường C/N thuận lợi và độ ẩm phù hợp cho quá trình ủ, giúp tạo ra sản phẩm vi sinh có chất lượng tốt hơn. Công suất hiện nay của nhà máy là khoảng 5000 tấn phân vi sinh/năm. 120 phụ lục Hiện nay, lượng phân bùn tiếp nhận thực tế ở nhà máy Cầu Diễn chỉ là từ 20 – 50 tấn/ngày do những hạn chế trong khâu xử lý và marketing sản phẩm – quá nhỏ so với nhu cầu ước tính của thành phố (khoảng 189 tấn phân bùn được nạo vét mỗi ngày – theo Nguyễn V. A. Và cộng sự, 2012. Quản lý phân bùn ở thành phố Hải Phòng Hải Phòng có khoảng 221.000 bể tự hoại (88% số hộ), 25.100 nhà vệ sinh hố xí đào (10% số hộ) và khoảng 2% dân số Hải Phòng không có công trình vệ sinh. Số lượng bể tự hoại tăng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi kết thúc dự án 1B vì các hộ gia đình thu nhập thấp giờ có thể tiếp cận Qũy quay vòng do Hội Phụ nữ quản lý để cải thiện nhà vệ sinh và đấu nối vào mạng lưới thoát nước. Mặt khác, người dân thành phố Hải Phòng đang chuyển sang xây dựng bể tự hoại, đặc biệt khi họ cải tạo nhà hay xây nhà. Như cam kết của Chính phủ Việt Nam với Ngân hàng Thế giới trong dự án 1B, thành phố Hải Phòng phải thu phí nước thải ở mức 15% hóa đơn nước sạch và tăng phí dần dần. Từ năm 2005, công ty Thoát nước Hải Phòng bắt đầu thu mức phí này. Cho đến nay, tất cả các thành phố khác ở Việt Nam, trừ Hải Phòng và Sóc Trăng, vẫn thu phí nước thải ở mức 10% hóa đơn nước sạch. Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên Thoát nước Hải Phòng là doanh nghiệp công ích chịu trách nhiệm vận hành, cải tạo, xây dựng hệ thống thoát nước, xử lý nước thải và bùn thải ở Hải Phòng và các khu vực xung quanh. Ngoài ra, công ty cũng thực hiện nhiều hoạt động khác như thiết kế và xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp. Công ty có 7 xí nghiệp thành viên cung cấp dịch vụ cho toàn thành phố. Trạm xử lý bùn thải Tràng Cát là một đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm xử lý bùn thải nạo vét từ bể tự hoại và hệ thống thoát nước của thành phố. Bùn thải nhà vệ sinh nạo vét từ các bể tự hoại được vận chuyển đến địa điểm gần bãi chôn lấp hợp vệ sinh hiện có. Bùn thải nhà vệ sinh sẽ được trộn theo tỷ lệ 1:1 với rác thải hữu cơ phân loại từ rác thải thành phố và ủ trong vòng 2 tháng. Trong thời gian đó, hỗn hợp này sẽ thường xuyên được đảo trộn để phân hủy tốt. Bùn thải đã phân hủy sẽ được chở đến khu vực hoàn thiện để xử lý trong 4 tháng. Sau đó nó được chở đến bãi chôn lấp hợp vệ sinh để sử dụng làm đất phủ hoạt bón cây trồng. Quản lý phân bùn không phải là hoạt động kinh doanh chính của Công ty Thoát nước Hải Phòng. Doanh thu của dịch vụ nạo vét bùn thải không đủ trang trải chi phí vận hành. Công ty Thoát nước Hải Phòng phải hỗ trợ tài chính cho mảng quản lý phân bùn từ phí thoát nước. Công ty Thoát nước Hải Phòng được ngân sách hàng năm của thành phố phân bổ tài chính dựa vào kế hoạch quản lý, vận hành hệ thống thoát nước của thành phố. Khoảng 15% lượng ngân sách phân bổ được dành để chi trả dịch vụ nạo vét định kỳ bùn thải bể tự hoại gia đình, công sở, khu dân cư và nhà vệ sinh công cộng trong thành phố. Doanh thu từ phí nước thải hàng năm đều tăng, và từ năm 2010 đã cơ bản đủ để trang trải chi phí vận hành, bảo dưỡng mạng lưới thoát nước và chi phí nạo vét bùn bể tự hoại định kỳ. Công ty dự định sẽ yêu cầu chính quyền thành phố tăng phí nước thải từ 15% lên thành 20% giá nước sạch vào năm 2012, 25% vào năm 2015 và 40% trong những năm sau đó. Trong hệ thống thông tin địa lý của Công ty Thoát nước Hải Phòng, hiện có 86.501 bể tự hoại được nạo vét định kỳ ở bốn quận. Công ty dự định thực hiện nạo vét bể tự hoại gia đình 5-6 năm/lần và nạo vét bể tự hoại của các khu tập thể 1-2 năm/lần. Công ty đã nạo vét miễn phí 80.270m3 phân bùn từ 44.682 bể tự hoại ở 40/47 phường và khu dân cư trong 4 quận (Công ty Thoát nước Hải Phòng, 2012). 121 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Công ty Thoát nước Hải Phòng cũng đang vận hành trạm xử lý bùn Tràng Cát vốn được xây dựng trong dự án 1B của Ngân hàng Thế giới. Tổng diện tích của trạm xử lý này là 162.844 m2, công suất thiết kế là 120.000m3/ năm, tiếp nhận và xử lý bùn thải nạo vét từ cống, mương, hồ và phân bùn bể tự hoại. Đối với các đơn vị tư nhân cung cấp dịch vụ này thì thông hút bùn là hoạt động kinh doanh chính. Một số đơn vị tạo thêm thu nhập bằng cách sử dụng xe vào các mục đích khác như nạo vét, vận chuyển và chôn lấp chất thải công nghiệp, chất thải xây dựng, v.v. Do Công ty Thoát nước Hải Phòng cung cấp dịch vụ quản lý phân bùn cho hầu hết các khu vực trong thành phố, các doanh nghiệp tư nhân đang tìm cách giảm thiểu chi phí hoạt động, cung cấp thêm các dịch vụ bổ sung như thu gom và xử lý chất thải nguy hại và thông hút bùn thải bể tự hoại của các đơn vị sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp này cũng đang mở rộng địa bàn hoạt động sang các khu vực xung quanh, nơi họ có thể hút bùn và bán lại bùn cho các hồ cá và nông trại. Hình C8: Tần suất hút phân bùn ở Hải Phòng Hải Phòng: Tần suất thông hút 5% 1% 3% 6% % không thông hút 6% % không biết 2-3 lần/năm 10% 1 năm /lần 29% 2 năm /lần 3 năm /lần 16% 4 năm /lần 24% 5-10 năm /lần Trên 10 năm/lần Nguồn: Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012 Hình C8 cho thấy 29% số hộ gia đình được khảo sát ở Hải Phòng thông hút 5-10 năm/lần, khoảng 6% số hộ thông hút 2 lần/năm. Tần suất thông hút bùn bể tự hoại ở Hải Phòng trung bình là 4,4 năm/lần. Thông hút bùn chủ yếu được thực hiện bằng cơ giới. Công ty có 16 xe hút bùn từ dự án 1B với dung tích bồn từ 0,5 -7,75 m3. Dự án đã cấp cho Công ty 3 xe xitéc nhỏ, dung tích 0.35 m3 với máy hút và bồn chứa nhỏ để có thể tiếp cận các hộ gia đình nằm trong các hẻm nhỏ, sâu. Xe xitéc này có thể gắn vào phía sau xe hút bùn hoặc có thể đẩy đi được. Xe hút bùn nhỏ hút bùn của các hộ gia đình trong hẻm và đổ sang xe bồn dung tích 10 m3 đỗ ở ngoài đường phố lớn. Trạm Tràng Cát có diện tích khu xử lý là 5ha, bao gồm 3 nhà ủ vi sinh bùn thải và chất thải hữu cơ; 0,4 ha bể lắng; 1ha sân phơi bùn; 0,6 ha hồ lắng; 1,2 ha hồ xử lý. Trạm có các thiết bị hiện đại như cần cẩu, thiết bị đảo trộn, thiết bị sàng, bơm, v.v. 122 phụ lục Hình C9: Quy trình xử lý phân bùn ở trạm Tràng Cát Bể lắng Ủ vi sinh Sàng Chất thải Cân Bãi chôn lấp Thu gom nước rỉ rác Trộn phụ gia và đóng gói Bán Sông Bơm Hồ xử lý nước rỉ rác Nguồn: Công ty Thoát nước Hải Phòng, 2012 Hình C10: Hồ lắng xử lý phân bùn ở trạm Tràng Cát Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2012 Trạm Tràng Cát tiếp nhận khoảng 10.000 – 25.000 m3 bùn thải mỗi năm. Lượng bùn thải nhà máy xử lý sẽ tăng lên trong tương lai khi triển khai dự án Vệ sinh môi trường (2011 – 2015, vốn JICA). Quản lý phân bùn ở thành phố Hồ Chí Minh Hiện có 4 loại hình công ty cung cấp dịch vụ quản lý phân bùn ở TP. Hồ Chí Minh như sau: 1. Công ty nhà nước CITENCO; Công ty tư nhân chuyên cung cấp dịch vụ thông hút bùn và vận chuyển phân bùn; 2. 123 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Công ty tư nhân thực hiện các hoạt động quản lý hạ tầng đô thị bao gồm cả quản lý phân bùn; 3. 4. Các công ty tư nhân xử lý phân bùn và sản xuất phân vi sinh. Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên Môi trường đô thị Thành phố Hồ Chí Minh là công ty nhà nước chịu trách nhiệm thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt, thương mại, bệnh viện, công nghiệp và xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, công ty còn thực hiện nhiều hoạt động khác như: làm vệ sinh nhà ở và công sở; tái chế rác thải; sản xuất thiết bị cơ khí, thiết bị chuyên dùng và xe vận chuyển cơ khí; tư vấn, thiết kế và xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp; đào tạo, chuyển giao công nghệ môi trường đô thị; xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị; kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng; xuất khẩu lao động. Công ty có 5 đơn vị trực thuộc thực hiện các hoạt động khác nhau. Hút bùn thải nhà vệ sinh công cộng chỉ là một trong những hoạt động của Công ty. Hoạt động kinh doanh của Công ty Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh bao gồm lắp đặt hệ thống cấp nước; thu gom, vận chuyển chất thải rắn bằng xe tải; sửa chữa và xây dựng bể tự hoại; vận chuyển chất thải nguy hại, chăm sóc cây bonsai và cây xanh; bán và cho thuê các thiết bị vệ sinh (ví dụ như nhà vệ sinh công cộng di động); xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp; vận chuyển và tưới tiêu; v.v. Liên quan đến hoạt động quản lý phân bùn, Công ty Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh thông hút hầu hết các nhà vệ sinh công cộng, cả cố định và di dộng, và nhà vệ sinh công cộng đã cho thuê. Công ty có 7 xe tải với dung tích bồn trung bình là 5,5 m3. Người dân đô thị thường thích sử dụng dịch vụ của các công ty nhà nước do các công ty này thường có năng lực và đáng tin hơn. Trong số 5 đơn vị tư nhân được khảo sát, 2 đơn vị chỉ cung cấp dịch vụ thông hút phân bùn. Các công ty còn lại thực hiện các hoạt động khác như lắp đặt hệ thống thoát nước; thu gom rác thải sinh hoạt, thương mại và công nghiệp; thu gom rác thải nguy hại; xử lý nước thải và nước; xây dựng và sửa chữa bể tự hoại, nạo vét cống thoát nước, v.v. Một vài công ty sử dụng xe hút hầm cầu để nạo vét, vận chuyển và đổ thải chất thải thương mại, công nghiệp và xây dựng, v.v. Hình C11: Tần suất thông hút phân bùn các hộ gia đình Tần suất thông hút 5% 7% 17% 2 lần/năm 20% 1 lần/năm Dưới 5 năm/lần 5-10 năm/lần Khác 19% Không thông hút 32% Nguồn: Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012 124 phụ lục Hình C11 cho thấy 52% số hộ gia đình được khảo sát thực hiện hút phân bùn 1-5 năm/lần, khoảng 7% hút 2 lần/năm. Điều đó cho thấy một số bể tự hoại ở Hồ Chí Minh được xây dựng không đúng tiêu chuẩn. Hơn nữa, người dân chỉ yêu cầu dịch vụ khi bể tự hoại bị đầy, phát sinh mùi, v.v. Hầu hết người dân thực hiện thông hút không thường xuyên không biết tình trạng bể tự hoại của họ ra sao, không trả lời được câu hỏi về kích thước bể, tần suất thông hút, tình trạng hoạt động của bể và nâng cấp bể. Xử lý phân bùn ở bãi chôn lấp Đông Thạnh, TP. HCM Bãi chôn lấp Đông Thạnh được UBND thành phố Hồ Chí Minh dùng để tiếp nhận và xử lý cả phân bùn với công suất trung bình mỗi ngày là 180 m3, khu vực xử lý rộng khoảng 4000 m2. Bãi chôn lấp sản xuất 2 sản phẩm: bùn khô bán cho các hộ gia đình trong khu vực dùng làm phân bón với giá khoảng 600.000 VNĐ/tấn (30USD/tấn) và bùn sinh học bán cho các công ty xử lý nước thải với giá 800.000 VNĐ/tấn (40 USD/tấn). Quản lý phân bùn ở thành phố Đà Nẵng Ngoài Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng, có 7-8 doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ quản lý phân bùn ở thành phố Đà Nẵng. Tổng cộng toàn thành phố có 30 – 40 xe tải hút bùn, hút được 10.000 – 20.000 tấn/ năm. Bùn do các công ty tư nhân và nhà nước đưa đến bãi chôn lấp Khánh Sơn được tách nước bằng công nghệ đơn giản. Doanh nghiệp tư nhân phải trả 30.000-50.000 VNĐ/ m3 bùn chở đến bãi chôn lấp. Các doanh nghiệp thường xuyên chở bùn đến bãi cũng có thể đóng phí theo tháng (3-5 triệu VNĐ/xe/tháng). Không như thành phố Hải Phòng, chương trình thông hút phân bùn định kỳ thực hiện trong dự án 1B của Ngân hàng Thế giới ở Đà Nẵng đã kết thúc từ năm 2005. Nguyên nhân là chương trình đó chỉ mang tính thí điểm, ngân sách thành phố còn hạn chế và chính quyền chưa kiểm soát chặt chẽ được hoạt động đấu nối và vận hành bể tự hoại của hộ gia đình. Bãi chôn lấp Khánh Sơn dành 4 ha cho dự án quản lý phân bùn mới mà chính quyền thành phố mong muốn mời khối tư nhân tham gia đầu tư. Cần xây dựng một chiến lược quản lý bùn thải toàn diện cho thành phố Đà Nẵng. Hình C12: Đổ phân bùn vào ngăn tiếp nhận ở Quản lý phân bùn ở thành phố Buôn Ma Thuột và Đà Lạt nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt Buôn Ma Thuột và Đà Lạt là hai thành phố đầu tiên sử dụng hệ thống thoát nước riêng ở Việt Nam (từ 2006). Tuy nhiên các dự án của DANIDA chỉ có thể cung cấp dịch vụ cho 30 – 40% diện tích thành phố. Các khu vực còn lại vẫn sử dụng bể tự hoại đấu nối vào hệ thống thoát nước chung hay giếng thấm. Mỗi ngày, các doanh nghiệp tư nhân thông hút được khoảng 2 – 3 xe và chở đến nhà máy xử lý nước thải tập trung để xử lý kết hợp xử lý với nước thải (Hình C12 và Hình C13). Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt hiện đang sản xuất phân vi sinh từ bùn đã tách nước, bao gồm cả bùn thải nhà vệ sinh, để bán cho các nhà vườn trồng hoa và rau ở thành phố Đà Lạt. Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2012 125 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Nhận thức được nồng độ chất dinh dưỡng và hữu cơ Hình C13: Xe hút phân bùn đang đổ bùn vào cao trong bùn thải nhà vệ sinh, một số đơn vị thông ngăn tiếp nhận ở nhà máy xử lý nước thải TP. hút đang bán phân bùn cho nông dân để sử dụng trực Buôn Ma Thuột tiếp/gián tiếp trong các hoạt động nông nghiệp và thủy sản. Một số doanh nghiệp tư nhân đang phối trộn bùn thải nhà vệ sinh với các chất thải nông nghiệp và chất thải hữu cơ khác để làm phân bón vi sinh. Hiện nay Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về kiểm soát chất lượng (bao gồm cả tái sử dụng an toàn) các sản phẩm vi sinh từ phân bùn, trừ Quyết định số 04/2007- QĐ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấm sử dụng phân bón sản xuất từ chất thải con người và động vật khi trồng rau an toàn. Quản lý phân bùn ở thành phố Hạ Long và phường Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh Dự án của Ngân hàng Thế giới ở Quảng Ninh xây dựng hai nhà máy xử lý nước thải tập trung ở Hạ Long và Bãi Cháy, Quảng Ninh. Cả hai dự án đều có các hoạt động như cải thiện bể tự hoại gia đình và đấu nối hộ gia đình vào mạng lưới thoát nước sử dụng vốn quay vòng, xây dựng năng lực cho công ty môi trường đô thị, xây dựng Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2012 trạm tiếp nhận và xử lý phân bùn tại nhà máy xử lý nước thải ở Hạ Long và Bãi Cháy. Công nghệ áp dụng là sử dụng vôi và tách nước ở sân phơi bùn. Cả hai trạm Hình C14: Sân phơi bùn. Đằng xa là công trình xử lý phân bùn đều không còn hoạt động do không tiếp tiếp nhận bùn (hiện nay không còn hoạt động) tục thực hiện chương trình hút phân bùn (Hình C14). So sánh mô hình dịch vụ quản lý chất thải rắn ở 3 thành phố lớn Hà Nội: các doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ thông hút bể tự hoại hộ gia đình và công sở trong khi công ty TNHH một thành viên Môi trường đô thị Hà Nội số 7 (URENCO 7) hút phân bùn nhà vệ sinh công cộng. URENCO 7 sản xuất và bán sản phẩm phân vi sinh từ phân bùn và chất thải hữu cơ. URENCO 7 nhận hỗ trợ từ Công ty Môi trường đô thị Hà Nội – thu nhập chính của Công ty mẹ là từ hoạt động thu gom rác thải và các dịch vụ khác. Thành phố Hải Phòng: công tác thông hút phân bùn Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2012 bể tự hoại hộ gia đình nằm trong kế hoạch hàng năm do Công ty TNHH nhà nước một thành viên Thoát nước Hải Phòng thực hiện; Công ty này và các công ty tư nhân thực hiện và thu phí dịch vụ thông hút bùn bể tự hoại cho các gia đình khác và công sở; Công ty Thoát nước Hải Phòng cũng hút bùn nhà vệ sinh công cộng. Công ty Thoát nước Hải Phòng được phép sử dụng một phần phí nước thải thu gom được để hút bùn cho các hộ dân. Thành phố hỗ trợ một phần nhỏ 126 phụ lục cho Công ty vì mức thu phí dịch vụ (15% tiền hóa đơn nước sạch) không đủ để trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng. Thành phố Hồ Chí Minh: các công ty tư nhân cung cấp dịch vụ thông hút bể tự hoại hộ gia đình và công sở; công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh cho thuê và thực hiện hút bùn nhà vệ sinh công cộng; công ty tư nhân khác thực hiện xử lý phân bùn, thu phí tính theo mỗi m3 bùn chở đến và bán sản phẩm phân vi sinh. Hoạt động quản lý phân bùn hầu như do thị trường điều tiết. Cơ hội cải thiện Ở Hải Phòng, quản lý phân bùn là một phần hoạt động của công ty quản lý hệ thống thoát nước đô thị trong khi ở hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, đây lại là nhiệm vụ của công ty quản lý rác thải. Có thể nâng cao hiệu quả quản lý phân bùn ở các thành phố này bằng các cách sau: a. Coi quản lý phân bùn là một phần của hệ thống thoát nước. Có thể áp dụng nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiền” trong hoạt động quản lý phân bùn bằng cách tăng phí dịch vụ (mô hình của Hải Phòng). b. Tiếp tục để khối tư nhân quản lý phân bùn, chính quyền thành phố tăng cường kiểm tra, giám sát và đồng thời áp dụng các biện pháp tài chính để khuyến khích các đơn vị thu gom chở bùn thải đến bãi đổ/bãi chôn lấp (mô hình ở TP. Hồ Chí Minh); c. Tăng phí dịch vụ hút bùn thu từ các hộ gia đình. Đây là một giải pháp khác phương án (2) nói trên để các đơn vị cung cấp dịch vụ có thể thu hồi được chi phí. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động quản lý phân bùn để tránh tình trạng đổ thải trái phép. d. Áp dụng mô hình quản lý chất thải tổng hợp trên toàn thành phố. Các loại chất thải được xử lý hay phối hợp xử lý để thu hồi tài nguyên, ví dụ như biogas, phân bón, chất cải tạo đất, v.v. Cần lồng ghép quan điểm quản lý chất thải bền vững vào trong quá trình lập quy hoạch phát triển đô thị dài hạn. 4. Đảm bảo hoạt động bền vững của khối tư nhân Hiện nay, hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân tham gia lĩnh vực quản lý phân bùn không chồng chéo với các hoạt động của khối nhà nước. Các doanh nghiệp này tự thực hiện marketing, hút bùn và đổ thải trái phép, không có sự hỗ trợ của chính quyền thành phố. Thành phố Hà Nội đã thực hiện dự án 3R (giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải) từ năm 2006, với các chiến dịch phân loại rác thải tại nguồn và xây dựng năng lực cho công ty Môi trường đô thị Hà Nội. Dự án do Nhật Bản tài trợ với sự hỗ trợ kỹ thuật của JICA. Rác thải đã phân loại từ bốn phường thí điểm ở nội thành Hà Nội được chở về trạm xử lý rác Cầu Diễn để sản xuất phân bón vi sinh. Phân bùn chở về trạm Cầu Diễn cũng được phối trộn để ủ vi sinh. Mở rộng dự án 3R và thực hiện một chiến lược marketing phù hợp cho sản phẩm phân bón vi sinh có thể giúp trạm xử lý rác Cầu Diễn kinh doanh hiệu quả hơn khi tiếp nhận bùn từ các nhà vệ sinh. Ngoài ra, cần nâng cao công suất xử lý của trạm này. Thành phố Hà Nội hiện đang cân nhắc đầu tư một trạm xử lý phân bùn khác. Cùng với khối tư nhân, các cơ quan, ban ngành có liên quan, công ty nhà nước (Công ty Thoát nước, Công ty Môi trường đô thị), chính quyền cấp phường/quận,huyện/thành phố, các trường học và trường đại học, các tổ chức phi chính phủ cũng cần thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức về thông hút thường xuyên bùn thải bể tự hoại hộ gia đình và nhà vệ sinh công cộng. Một số dự án vệ sinh môi trường như dự án 1B của Ngân hàng Thế giới ở Hải Phòng (2000 – 2009) có kinh nghiệm thực hiện tốt chương trình nâng cao nhận thức về thông hút bể tự hoại. Vì bể tự hoại là công trình vệ sinh tại chỗ phổ biến ở các thành phố 127 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Việt Nam, việc thông hút bể tự hoại thường xuyên sẽ đảm bảo thị trường bền vững cho hoạt động thông hút, chuyên chở, xử lý và tái sử dụng phân bùn, chưa kể đến hoạt động cải tạo bể tự hoại. Chính quyền thành phố và cộng đồng kiểm soát chặt chẽ hoạt động đổ thải phân bùn sẽ hạn chế hành vi đổ trái phép của các doanh nghiệp thông hút phân bùn tư nhân. Cần phạt nặng các trường hợp đổ thải trái phép để buộc các doanh nghiệp này xem xét lại hoạt động chuyên chở và đổ thải của mình. Cần tăng phí dịch vụ thu gom và vận chuyển phân bùn để giúp khối tư nhân làm ăn có lãi. 5. Phân tích tài chính hoạt động quản lý phân bùn Nghiên cứu gần đây về quản lý phân bùn của Qũy Bill and Melinda Gates (Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012) cho thấy tất cả các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này đều có lãi. Mức lợi nhuận trung bình hàng năm của các doanh nghiệp tư nhân ở Hà Nội là 2.835USD/xe, ở Hải Phòng là 3.187 USD/ xe, ở Hồ Chí Minh là 10.727 USD/xe. Mức lợi nhuận trung bình ở thành phố Hồ Chí Minh cao hơn ở các thành phố khác rất nhiều. Thời gian thu hồi chi phí của các doanh nghiệp ở các thành phố Hà Nội là 3-4 năm, ở Hải Phòng là 3 năm, và ở Thành phố Hồ Chí Minh là 1-4 năm. Trong số các doanh nghiệp nhà nước được khảo sát ở các thành phố này, chỉ có Công ty Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh làm ăn có lãi. Doanh thu chính và lợi nhuận của Công ty không phải từ dịch vụ thông hút bể tự hoại mà từ dịch vụ cho thuê nhà vệ sinh công cộng (57% so với 43% doanh thu). Công ty này cũng thu phí dịch vụ thông hút bùn nhà vệ sinh cho thuê. Không như các doanh nghiệp công ích ở Hà Nội và Hải Phòng, Công ty Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh không xử lý phân bùn, do đó báo cáo tài chính của Công ty không có chi phí khấu hao lớn dành cho công trình xử lý. Khi xác định điểm hòa vốn, Công ty cũng không phải tính chi phí này. Đối với Công ty Môi trường đô thị Hà Nội, trong năm 2010 xe của Công ty chuyên chở 2016 chuyến bùn thải, trong khi cần phải hút được ít nhất 9.826 chuyến mới có lãi do chi phí khấu hao cơ bản hàng năm quá lớn. Tính trung bình, mỗi năm thay vì chở 403 chuyến như hiện nay, mỗi xe sẽ phải chở 1.965 chuyến, đây là con số không khả thi. Công ty ở Hải Phòng cũng gặp tình trạng tương tự. Công ty phải tăng số chuyến mỗi xe chạy trong một năm từ mức 1008 chuyến hiện nay lên 1422 chuyến thì mới có lãi. Các con số này cao hơn nhiều so với số chuyến xe của công ty tư nhân thực hiện tại điểm hòa vốn (264 chuyến/xe/năm). Như phân tích ở phần trên, Công ty Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh không cần phải đầu tư lớn như các công ty ở Hà Nội và Hải Phòng. Tại điểm hòa vốn, số chuyến mỗi xe của Công ty ở thành phố Hồ Chí Minh chạy cũng ngang với số chuyến các xe tư nhân phải chạy. 6. Kết luận và Kiến nghị a. Các công ty nhà nước chiếm phần lớn thị phần quản lý phân bùn ở ba thành phố lớn nhất nước. Tuy nhiên ở các đô thị khác, khối tư nhân lại đóng vai trò quan trọng hơn trong lĩnh vực thông hút phân bùn. Hầu hết các công ty nhà nước làm ăn không có lãi. Dịch vụ quản lý phân bùn chỉ là hoạt động công ích của các công ty nhà nước, thường do các hoạt động khác của công ty bù lỗ hay nhận hỗ trợ từ ngân sách thành phố. b. Phân bùn có thể được xử lý cùng với nước thải hay bùn ở nhà máy xử lý nước thải tập trung, ủ vi sinh hay lên men, phân hủy yếm khí cùng với chất thải hữu cơ để thu biogas. Để đảm bảo hiệu quả và tính bền vững của công trình, tùy từng trường hợp, cần xây dựng chiến lược quản lý phân bùn và lồng ghép vào trong quá trình quy hoạch phát triển hạ tầng đô thị, bao gồm hạ tầng cấp thoát nước và quản lý chất thải rắn. 128 phụ lục c. Thành phố Hải Phòng thực hiện thông hút phân bùn định kỳ và miễn phí cho các cộng đồng trong khu vực dự án. Công ty Thoát nước Hải Phòng không có lãi ngay cả khi thu phí nước thải bằng 15% hóa đơn nước sạch và toàn bộ doanh thu từ phí được dùng để trang trải chi phí quản lý phân bùn. Nguyên nhân chính là do chi phí khấu hao hàng năm quá cao và số chuyến mỗi xe hút được hàng ngày thấp hơn con số tại điểm hòa vốn mà phân tích tài chính đã chỉ ra. d. Tất cả các doanh nghiệp tư nhân tham gia lĩnh vực quản lý phân bùn đều làm ăn có lãi. Tuy nhiên, để giảm chi phí hoạt động, hầu hết các công ty này đều đổ bùn trái phép, gây ô nhiễm môi trường thành phố và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. e. Đối với dịch vụ thu gom và vận chuyển phân bùn, có thể thu hồi chi phí hút bùn (cả chi phí hoạt động và khấu hao) bằng cách tăng phí. Tuy nhiên không thể thu hồi chi phí xử lý phân bùn. Các nhân tố cần quan tâm ở đây là công nghệ thu gom, xử lý, tái chế phân bùn và chất lượng phân vi sinh mà thị trường chấp nhận được. f. Các doanh nghiệp tư nhân tham gia lĩnh vực quản lý phân bùn vẫn có thể tăng lợi nhuận khi đổ thải đúng quy định, nếu: (a) thay đổi mô hình kinh doanh, mở rộng lĩnh vực hoạt động; (b) chính quyền thành phố bắt buộc các hộ dân thực hiện thông hút bể tự hoại/hầm cầu định kỳ; (c) tăng phí dịch vụ thông hút phân bùn hoặc chính quyền thành phố hỗ trợ chi phí vận chuyển bùn (tính theo đơn vị m3) đến nơi đổ thải quy định. Tăng phí nước thải và/hoặc phí quản lý chất thải rắn là một trong các biện pháp tăng doanh thu để chính quyền thành phố hỗ trợ tài chính cho hoạt động quản lý phân bùn. g. Một trong những giải pháp cải thiện dịch vụ quản lý phân bùn ở thành phố là trao dịch vụ này cho công ty công ích có ở địa bàn thực hiện. Thành phố kiểm soát dịch vụ và người sử dụng trả phí dịch vụ. Ngoài cách thanh toán trực tiếp mỗi lần thông hút, người sử dụng cũng có thể thanh toán dựa theo hóa đơn nước (là một phần phí nước thải) nếu công ty công ích cung cấp dịch vụ thông hút phân bùn định kỳ. Đồng thời các đơn vị cung cấp dịch vụ của nhà nước và tư nhân vẫn duy trì dịch vụ thông hút theo nhu cầu. h. Nhu cầu thị trường quản lý phân bùn là một trong những yếu tố quyết định doanh thu của công ty và các lợi ích đi kèm. Phí dịch vụ quản lý phân bùn cần được quy định ở mức có thể thu hồi toàn bộ chi phí. i. Lĩnh vực quản lý phân bùn cần vận hành theo nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước và chính quyền địa phương. Nếu khung quy định pháp lý về vệ sinh môi trường còn yếu, phí dịch vụ quản lý phân bùn thấp, các đơn vị cung cấp dịch vụ sẽ tìm cách lách luật để giảm chi phí và tăng tính cạnh tranh, như bơm bừa bãi, đổ bùn trái phép và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Ngoài nâng cao nhận thức cho cộng đồng và các công ty cung cấp dịch vụ, nhà nước và cộng đồng kiểm soát dịch vụ, cần sử dụng các công cụ tài chính. j. Để quản lý bền vững lĩnh vực này, cần quán triệt quan điểm quản lý tổng hợp chất thải (bao gồm các hệ thống thu gom và xử lý chất thải tập trung và phân tán). Sử dụng hệ thống công trình thu gom và xử lý chất thải rắn/ nước thải hiện có để quản lý phân bùn là phương án khả thi và bền vững nhất cho các đô thị Việt Nam. Hệ thống quản lý chất thải tổng hợp sẽ bao gồm các hoạt động phân loại rác tại nguồn, phối hợp xử lý phân bùn, chất thải hữu cơ và bùn cống để thu hồi tài nguyên như sử dụng khí biogas, cải thiện nước thải, tái sử dụng bùn thải đã phân hủy, v.v. Việc sử dụng cùng hạ tầng giúp tiết kiệm vốn đầu tư và giảm chi phí vận hành, nhờ đó việc thu hồi tài nguyên mang lại nhiều lợi ích hơn. Ngoài ra, mô hình hợp tác công tư (PPP) cũng là giải pháp giải quyết các thách thức về vốn đầu tư lớn hiện nay. 129 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH 5: LẬP KẾ HOẠCH, THỰC HIỆN DỰ ÁN VÀ HIỆU QUẢ DỰ ÁN QUẢN LÝ NƯỚC THẢI 1. 1. Công tác lập kế hoạch quản lý nước thải Luật Quy hoạch đô thị (2009) và Nghị định 37/2010/NĐ-CP quy định các hoạt động liên quan đến xây dựng, đánh giá và phê duyệt quy hoạch đô thị. Nghị định 88/2007/NĐ-CP quy định các nội dung quy hoạch thoát nước ở khu vực đô thị và khu công nghiệp. Các văn bản này có những nội dung không thống nhất với nhau. Ví dụ: a. Điểm 4 khoản 12 chương II Nghị định 88/207/NĐ-CP quy định quy hoạch thoát nước phải được tổ chức lập như một đồ án quy hoạch riêng cho các đô thị loại 2 trở lên. Tuy nhiên, điều 21 Nghị định 37/2010/NĐ-CP quy định phải lập đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật cho thành phố trực thuộc trung ương (Báo cáo nghiên cứu của dự án U3SAP, 08/2012). Do vậy, cần điều chỉnh các chi tiết quy hoạch thoát nước trong Nghị định 88/2007/NĐ-CP cho phù hợp với các quy định trong Luật Quy hoạch đô thị và Nghị định 37/2010/NĐ-CP. b. Điều 14 và 16 Nghị định 88/2007/NĐ-CP về nhiệm vụ và nội dung quy hoạch thoát nước, quy hoạch thoát nước vùng và quy hoạch thoát nước đô thị cũng chưa làm rõ nội dung trên do cấp đô thị lập đồ án quy hoạch khác nhau (xem Báo cáo nghiên cứu của dự án U3SAP, 08/2012). c. Khoản 5 điều 16 của Nghị định 37/2010/NĐ-CP về định hướng phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị khi lập quy hoạch chung thành phố thuộc tỉnh, thị xã chưa quy định đầy đủ các yếu tố cần có trong quy hoạch phát triển vệ sinh môi trường và chưa định hướng hiệu quả công tác lựa chọn dự án thoát nước phù hợp. Mặc dù định hướng phát triển thoát nước đô thị đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt trong Quyết định số 1930/QĐ của Thủ tướng Chính phủ, trong đó quy định phải xây dựng hệ thống thoát nước riêng cho các khu vực đô thị mới. Tuy nhiên khó thực hiện được quy định này do xây dựng hệ thống thoát nước riêng sẽ tốn kém hơn và công tác giám sát, quản lý còn chưa hiệu quả. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch thoát nước ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, miền Trung và phía Nam (Quyết định 1336/QĐ-TTg ngày 22/12/2008) và quy hoạch thoát nước vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long (Quyết định 2066/QĐ-TTg ngyaf 12/11/2011). Bộ Xây dựng được phân công quản lý quy hoạch, hướng dẫn các địa phương lập và điều chỉnh quy hoạch thoát nước cho phù hợp và lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án. Trên thực tế, hầu hết các đô thị đều muốn lập quy hoạch thoát nước để thúc đẩy đô thị mình phát triển. Đa số các quy hoạch hiện nay tập trung vào việc mở rộng và cải tạo hệ thống thoát nước chung hiện có. Hệ thống thoát nước riêng được lập cho các khu vực mới phát triển. Tuy nhiên các nhà máy xử lý nước thải thường đặt ở ngoài khu vực mới phát triển. Trước khi chảy đến nhà máy xử lý nước thải, hệ thống thoát nước riêng lại nhập vào hệ thống thoát nước chung chảy dọc theo đường giao thông bên ngoài khu vực dự án. Các công ty thoát nước và chính quyền địa phương chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt động đấu nối hộ gia đình, nhiều trường hợp các gia đình này thu gom cả nước mưa vào trong hệ thống thoát nước riêng. Trong quy hoạch thoát nước cần dự kiến công nghệ xử lý áp dụng ở các nhà máy xử lý nước thải để đảm bảo bố trí đủ diện tích đất cho nhà máy, bao gồm cả diện tích vùng đệm. Có thể áp dụng các công nghệ chi phí thấp để đảm bảo hiệu quả và tính bền vững của dự án. Cho đến nay mới chỉ có một số thành phố thực hiện được điều này. Dự án Buôn Ma Thuột là một điển hình lập quy hoạch quản lý nước thải đô thị thành công. Hiện nay dự án đã thực hiện đấu nối và xử lý nước thải cho 5.500 hộ gia đình. Tuyến cống thu gom nước chính được 130 phụ lục thiết kế cho 17.000 hộ gia đình trong toàn thành phố. Tổng cộng thành phố đã dành 20 ha để xây dựng nhà máy xử lý nước thải, cho phép mở rộng nhà máy trong giai đoạn sau. Nhiêu Lộc – Thị Nghè cũng là một dự án thành công. Trong 10 năm từ 2002 đến 2012, 800 triệu USD đã được đầu tư để cải thiện thoát nước và tránh ngập lụt, cải thiện hệ thống thu gom nước thải và nâng cấp hạ tầng. Nhà máy xử lý nước thải sẽ được xây dựng trong giai đoạn 2 khi người dân địa phương nhận thức rõ hiệu quả cải thiện môi Hình C15: Nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long trường đô thị của các hoạt động trong giai đoạn 1. – Vân Trì (Hà Nội) hiện đang hoạt động chưa đạt Trong khi đó, công tác lập quy hoạch phát triển đô công suất thiết kế do chưa có đủ đấu nối thị và phân đợt thực hiện dự án thu gom và xử lý nước thải ở Hà Nội, Đà Nẵng và một số thành phố khác cho ta nhiều bài học đắt giá. Nhà máy xử lý nước Bắc Thăng Long – Vân Trì đã được xây dựng xong từ năm 2007 trong dự án sử dụng vốn vay của Ngân hàng Hợp tác phát triển Nhật (JBIC) với công suất thiết kế là 42.000m3/ngày. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa thu gom được nước thải từ các khu vực dân cư xung quanh để đưa về nhà máy. Nhà máy hiện đang vận hành với công suất 7.000m3/ ngày để “tái xử lý” nước thải đã được xử lý sơ bộ từ một trạm xử lý nước thải trong khu công nghiệp Thăng Long gần đó. Ba trong bốn nhà máy xử lý nước thải ở Đà Nẵng sẽ Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2011 bị đóng cửa, nước thải sẽ được chuyển đến hai nhà máy mới là Hòa Xuân và Liên Chiểu vào năm 2020. Ba nhà máy sẽ đóng cửa này nằm trong khu vực nội đô đang phát triển nhanh chóng và công nghệ áp dụng không đảm bảo nước thải đầu ra đạt tiêu chuẩn môi trường. Nhà máy xử lý nước thải ở Phủ Lý, Hà Nam đã được xây dựng xong vài năm trước. Tuy nhiên do chưa thực hiện xong đấu nối hộ gia đình và chưa xây xong hệ thống thu gom nên nhà máy này chưa vận hành được. Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở một số thành phố khác như Núi Sam (Châu Đốc, An Giang), Vinh (Nghệ An). Ưu tiên đầu tư xây dựng và quy hoạch chưa hợp lý giữa các hợp phần đấu nối hộ gia đình, xây dựng mạng lưới thoát nước và xây dựng nhà máy xử lý nước thải khiến nhiều dự án không hiệu quả, lãng phí vốn đầu tư. Hơn nữa các vấn đề liên quan đến đấu nối hộ gia đình và tình trạng nhà máy xử lý nước thải không hoạt động khiến người dân địa phương không ủng hộ dự án và do đó có thể sẽ không tham gia vào các dự án thu gom và xử lý nước thải trong tương lai. Nhìn chung, việc thực thi các quy hoạch thoát nước còn chậm; chủ yếu tập trung cải thiện hệ thống thoát nước hiện có và xây dựng các hệ thống mới ở các khu vực đô thị mới phát triển, đưa ra giải pháp khắc phục cho các khu vực bị ô nhiễm nặng nề. Các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương cần tổ chức lập và phê duyệt kế hoạch vệ sinh để tạo cơ sở cho quản lý đô thị cũng như để lập và thực hiện các dự án đầu tư. Công tác lập, phê duyệt và thực hiện kế hoạch phát triển vệ sinh ở các tỉnh và thành phố còn rất chậm, do: ●● Chính quyền địa phương chưa quan tâm đến công tác quy hoạch quản lý xây dựng; ●● Các quy hoạch phát triển chưa thống nhất, hoặc chưa lập quy hoạch chung đô thị để định hướng hay lồng ghép kế hoạch phát triển vệ sinh môi trường; 131 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam ●● Năng lực thực hiện của các địa phương còn yếu, ngân sách thực hiện khảo sát toàn diện và thu thập số liệu cũng như tuyển dụng tư vấn lập kế hoạch vệ sinh còn hạn chế; ●● Chất lượng kế hoạch kém, dự báo sai và dự án không hoàn chỉnh khiến dự án khó thực hiện và cần chỉnh sửa. Hiện nay, 10 tỉnh đã lập và phê duyệt xong quy hoạch thoát nước. Các tỉnh còn lại hoặc đang chỉnh sửa hoặc đang chuẩn bị lập. Mặc dù chưa lập quy hoạch thoát nước, một số tỉnh khảo sát đang triển khai dự án thoát nước trong đó có một số là dự án ODA. Ví dụ tỉnh Phú Yên đã đầu tư thực hiện hai dự án thoát nước cho thành phố Tuy Hòa và thị xã Sông Cầu trong khuôn khổ dự án Phát triển các đô thị vừa và nhỏ ở miền Trung (ADB); tỉnh Bình Định đang thực hiện dự án Vệ sinh môi trường thành phố Quy Nhơn bao gồm các hoạt động phát triển hạ tầng như thu gom nước thải, nước mưa, xây dựng nhà máy xử lý nước thải và trạm xử lý chất thải rắn (WB). Công tác quản lý kế hoạch phát triển vệ sinh môi trường ở các tỉnh còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cán bộ kiểm tra cũng như mức phạt chưa đủ sức răn đe trong khi người dân lấn chiếm làm hệ thống cống, mương thoát nước xuống cấp trầm trọng. Tình trạng chính quyền địa phương chưa quản lý phát triển đô thị hiệu quả theo quy hoạch đã được phê duyệt cũng hạn chế hiệu quả công tác quản lý kế hoạch phát triển vệ sinh môi trường. Một vấn đề khác liên quan đến việc lập quy hoạch quản lý nước thải là các tiêu chuẩn nước thải sau xử lý của Việt Nam. Gía trị cho phép của các thông số trong các tiêu chuẩn này quá khắt khe, đòi hỏi phải huy động một lượng lớn vốn đầu tư và vốn để trang trải chi phí vận hành – bảo dưỡng, trả lương cán bộ quản lý và vận hành có kỹ năng cao, v.v. Ngoài ra, các công nghệ và công trình xử lý chưa phù hợp với nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải, đặc biệt là ở các khu vực sử dụng hệ thống thoát nước chung có sử dụng bể tự hoại. Do nguồn lực hạn chế, dịch vụ thu gom và xử lý nước thải chỉ phục vụ một bộ phận nhỏ người dân đô thị. Cần áp dụng phương pháp thực hiện phân đợt, các tiêu chuẩn xử lý trong thời gian đầu cần đặt ở mức thấp và tăng lên sau đó cho phù hợp với nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải đầu vào để cuối cùng có thể đạt được các tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam. Nhờ đó có thể mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ vệ sinh đô thị với cùng một lượng vốn đầu tư và nguồn lực. Phong trào mỗi tỉnh đều “xin đầu tư” xây dựng sân bay, cảng biển nước sâu, khu công nghiệp, v.v. không nên lặp lại trong lĩnh vực xử lý nước thải. Các bài học về đầu tư kém hiệu quả cho thấy Chính phủ và các bộ ngành cần lập thứ tự ưu tiên các dự án xử lý nước thải. Với ngân sách và năng lực hiện có của nhà nước, chỉ nên phân bổ nguồn lực thực hiện các dự án thu gom và xử lý nước thải ở một số khu vực cần thiết nhất, là nơi ô nhiễm môi trường do nước thải đang tác động nghiêm trọng đến sức khỏe người dân và môi trường, và nơi các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương có ảnh hưởng đến toàn khu vực. Theo chúng tôi, các khu vực sau cần được ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống quản lý nước thải đô thị: (a) các thành phố duyên hải với các hoạt động sản xuất công nghiệp và du lịch phát triển; (b) các đô thị trung tâm của các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam; và (c) các đô thị phát triển năng động có ảnh hưởng đến các vùng, miền khác ở hạ nguồn. Cần huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách nhà nước. Cần xây dựng các chính sách phù hợp để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các hoạt động có lợi nhuận. Có thể thu hút vốn đầu tư vào quản lý nước thải ở các khu vực người dân có thu nhập thấp bằng cách lập kế hoạch vệ sinh môi trường, dành đất cho công trình thu gom và xử lý nước thải chi phí thấp. 2. Thực hiện dự án quản lý nước thải Trong các dự án vệ sinh đô thị, nhà nước và các nhà tài trợ đóng góp nhiều hơn người dân (77% so với 23%) (Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012). Chủ yếu vẫn là vốn hỗ trợ phát triển chính thức (các khoản vay ODA 132 phụ lục không hoàn lại và có hoàn lại) (56%) trong khi ngân sách nhà nước ở trung ương và địa phương chỉ chiếm 21%. Dưới đây là một số phát hiện của Đoàn đánh giá liên quan đến công tác thực hiện dự án: ●● Quy định khác nhau của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ về các vấn đề quan trọng khiến dự án khó thực hiện. ●● Các công ty thoát nước chịu trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng hệ thống chưa được tham gia tích cực trong giai đoạn đầu thiết kế và triển khai dự án. ●● Trong nhiều trường hợp, khi thiết kế và triển khai dự án không lựa chọn mô hình cung cấp dịch vụ. Do vậy hạn chế hiệu quả chuyển giao công nghệ và đào tạo vì đây là những hoạt động rất quan trọng để bàn giao hệ thống hiệu quả. Hạn chế này có thể làm dự án thất bại do hệ thống không phù hợp với điều kiện vận hành. Quy định trách nhiệm cho các bên liên quan còn manh mún và có khoảng trống cũng ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện dự án. Hầu hết các dự án đều triển khai chậm, tiến độ giải ngân cũng chậm. Thời gian chuẩn bị dự án phát triển hạ tầng vệ sinh trung bình là 3 – 4 năm (ở các nước khác là khoảng 2 năm). Thời gian thực hiện dự án trung bình là 7 – 9 năm (ở các nước khác là khoảng 5 năm) (Hình C16) (Lê D. H., 2011). Hình C16: Tiến độ thực hiện dự án ODA tiêu biểu, thực tế (đường bên phải) và kế hoạch (đường bên trái) 100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0% Year 1 Year 2 Year 3 Year 4 Year 5 Year 6 Year 7 Year 8 Year 9 Year 10 Original Estimate Actual Nguồn: Lê D. H., 2011 Các nguyên nhân chính làm chậm tiến độ thực hiện dự án: ●● Thời gian đấu thầu và giải phóng mặt bằng kéo dài do chính sách bồi thường đất của nhà nước không thống nhất, thay đổi thiết kế, năng lực thực hiện của các bên liên quan kém. ●● Tỷ lệ lạm phát cao. ●● Các khó khăn khi triển khai ở công trường không dự đoán trước được. ●● Trong một số trường hợp, chi phí dự án tăng cao khiến chính quyền địa phương phải cắt giảm khối lượng thi công hoặc phải tìm kiếm thêm nguồn vốn tài trợ. 133 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam ●● Không đủ nguồn lực để nâng cao năng lực cho đơn vị cung cấp dịch vụ (ví dụ trong hoạt động đào tao nguồn nhân lực) và thiếu ngân sách. Năng lực cán bộ Ban quản lý hạn chế là vấn đề phổ biến. Vấn đề này cần có đánh giá riêng và thảo luận thêm. Ban quản lý dự án là đơn vị chỉ tồn tại trong thời gian thực hiện dự án. Mỗi Ban quản lý dự án lại có những hạn chế riêng tùy theo kinh nghiệm quản lý các dự án trước đó của họ. Địa điểm văn phòng Ban quản lý ở mỗi dự án cũng khác nhau, có thể đặt ở trong trụ sở UBND tỉnh, đơn vị cung cấp dịch vụ hay ở cơ quan khác. Những hạn chế về năng lực quản lý dự án của Ban quản lý thể hiện ở tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng chậm; quản lý và giám sát nhà thầu chính không hiệu quả; quản lý tài chính kém (chậm giải ngân vốn cho dự án và cho nhà thầu); thiếu cán bộ chuyên trách kỹ thuật vệ sinh; chưa nắm rõ quy trình xây dựng cơ bản; chưa nắm rõ quy trình đấu thầu của Việt Nam và các nhà tài trợ. Kỹ năng tiếng Anh kém cũng là một hạn chế trong quá trình thực hiện dự án. 3. Hiệu quả dự án thu gom và xử lý nước thải Một nghiên cứu gần đây của Chương trình Nước và Vệ sinh, Ngân hàng Thế giới “Đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động cải thiện VSMT ở Việt Nam” cho thấy tỷ suất lợi ích/chi phí trung bình của các hoạt động cải thiện VSMT được khảo sát đạt trên 1. Các hỗ trợ cho khu vực đô thị đạt tỷ suất từ 1,4 đến 7,5 (giá trị thực tế). Cùng một hoạt động nhưng gía trị này tăng nếu dự án có hiệu quả cao hơn. Hoạt động có mang lại lợi ích về sức khỏe có tỷ suất lợi ích/chi phí cao hơn so với khi không đi kèm lợi ích sức khỏe. Tái sử dụng nước thải và bùn thải sau xử lý cũng mang lại giá trị kinh tế với chi phí thấp. Nghiên cứu này chỉ rõ thách thức của hầu hết các dự án vệ sinh đô thị là: lựa chọn công nghệ áp dụng; chất lượng thiết kế và thi công (liên quan đến năng lực của đơn vị tư vấn); quy trình thẩm định; tỷ lệ đấu nối hộ gia đình thấp; tính bền vững về tài chính; năng lực cán bộ vận hành - bảo dưỡng ở địa phương; năng lực theo dõi, đánh giá và kiểm soát trong quá trình thực hiện (Nguyễn Việt Anh và cộng sự, 2012). Trong giai đoạn phát triển dự án cần cân nhắc nhiều công nghệ xử lý khác nhau. Các yếu tố của địa phương như khu vực cộng đồng có thu nhập thấp, điều kiện địa hình, tự nhiên - kinh tế - xã hội cũng cần được xem xét. Phải đánh giá rõ ràng các giải pháp: thoát nước chung hay thoát nước riêng, xử lý tập trung hay xử lý phân tán; áp dụng công nghệ truyền thống, công nghệ cao, công nghệ có chi phí thấp hay kết hợp các công nghệ này. Nhiều dự án vệ sinh đô thị không quan tâm đến hệ thống đường ống thu gom cấp 3. Việc sử dụng hệ thống thoát nước chung ở các đô thị Việt Nam là một trong số những thách thức chính vì nó thường dẫn đến tình trạng quá tải và/hoặc ô nhiễm nguồn nước. Cần nghiên cứu các bài học rút ra từ các hệ thống vệ sinh đô thị mới, cả về tài chính và kinh tế. Báo cáo này phân tích các giải pháp sau: thoát nước riêng, xử lý nước thải với chi phí thấp theo phương thức tập trung hay phân tán trong các bể tự hoại có vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí (BASTAF), bãi lọc ngầm trồng cây và chuỗi hồ sinh học ở thành phố Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc), thị trấn Chợ Mới và Chợ Rã (Bắc Kạn), khu du lịch Bãi Cháy (Quảng Ninh), và tái sử dụng nước thải ở thành phố Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc). Tỷ lệ đấu nối, hệ thống thoát nước chung và công suất thực tế của nhà máy xử lý nước thải Tỷ lệ đấu nối hộ gia đình vào mạng lưới thoát nước ở các đô thị Việt Nam còn thấp. Việc sử dụng bể tự hoại và hệ thống thoát nước chung có tỷ lệ mương thoát nước hở cao là nguyên nhân dẫn đến tình trạng công suất xử lý ô nhiễm và tải trọng thủy lực của các nhà máy xử lý thấp. Việc hoạt động dưới công suất đe dọa tính bền vững của dự án. Người dân chưa thấy được hiệu quả cải thiện môi trường do nhiều hộ còn chưa đấu nối và chưa trả phí để hỗ trợ trang trải chi phí vận hành, bảo dưỡng hệ thống. Nhằm giải quyết các vấn 134 phụ lục đề này, chính quyền địa phương cần quy định bắt buộc đấu nối. Buôn Ma Thuột đã thực hiện thành công với 85% số hộ đấu nối vào hệ thống thoát nước riêng. Hiệu quả của việc xác định và sử dụng vốn đầu tư Vốn đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải chủ yếu là vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn ngân sách nhà nước đứng thứ hai. Khu vực tư nhân chỉ đầu tư phát triển hạ tầng nước thải trong các dự án địa ốc họ đầu tư. Dự án áp dụng mô hình Xây dựng - Chuyển giao (BT) đầu tiên đã được thực hiện ở thành phố Hà Nội (dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải Yên Sở do công ty Gamuda của Malaysia đầu tư). Thuế tài sản và thuế thu nhập cá nhân chưa được sử dụng để tăng ngân sách ở trung ương và địa phương. Cần xem xét sử dụng các loại thuế này như là một nguồn vốn tiềm năng cho các dự án thoát nước và xử lý nước thải. Doanh thu từ phí thoát nước không đủ để trang trải chi phí vận hành hệ thống nước thải, do vậy ngân sách địa phương phải hỗ trợ phần thiếu hụt này. Hình C17: Sản xuất phân vi sinh từ bùn thải ở Như đã phân tích ở trên, năng lực quản lý công tác nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt chuẩn bị và triển khai đầu tư xây dựng chưa tốt, khiến dự án bị chậm và thậm chí dẫn đến tình trạng chấm dứt hoạt động chuẩn bị dự án. Các mô hình quản lý đơn vị cung cấp dịch vụ tiềm ẩn rủi ro phân bổ và sử dụng vốn không hiệu quả. Vận hành và bảo dưỡng hệ thống thu gom và xử lý nước thải; Chất lượng dịch vụ cung cấp Một số công ty thoát nước đô thị/ công trình đô thị đang hoạt động có hiệu quả. Hoạt động của các công ty này đã được cải thiện đáng kể nhờ thực hiện dự án phát triển hạ tầng trong đó có hợp phần nâng cao năng lực. Ngoài các “hoạt động chỉ định” mà ngân sách Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2012 thành phố chi trả cho công ty, các công ty còn thực hiện nhiều hoạt động khác để tối ưu hóa quy trình làm việc Hình C18: Kiểm tra mạng lưới thoát nước và hiệu quả làm việc. Doanh nghiệp nhà nước quản lý riêng với robot và camera CCTV ở thành phố thành công và có nhiều sáng kiến cải thiện hiệu quả Buôn Ma Thuột hoạt động điển hình là Công ty Thoát nước Bà Rịa – Vũng Tàu, Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng, Công ty Quản lý đô thị và môi trường Đắc Lắc, ... Tuy nhiên, nhiều công ty thoát nước khác chỉ hoạt động cầm chừng do năng lực vận hành còn hạn chế và thiếu vốn. Các hoạt động Thông tin – Giáo dục – Truyền thông ít khi được các công ty thoát nước thực hiện. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng cộng đồng ít tham gia các hoạt động vệ sinh môi trường. Nhằm tối ưu hóa hiệu quả các dự án vệ sinh, cần cải thiện hình thức cung cấp dịch vụ thoát nước đô thị. Cần thiết lập mối quan hệ Hợp đồng giữa chính quyền Ảnh: Nguyễn Việt Anh, 2012 135 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam thành phố và đơn vị cung cấp dịch vụ - Công ty Thoát nước. Hợp đồng cần quy định bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ bên cạnh các thông số định lượng về sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường với chi phí hợp lý. Cũng cần thực hiện các chương trình xây dựng năng lực cho các đơn vị công ích để họ có thể thỏa mãn các yêu cầu của thành phố và cộng đồng. 4. Kết luận và Kiến nghị Căn cứ vào những hạn chế về ngân sách nhà nước và năng lực, cần ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước thải đô thị trong thập kỷ tới vào các khu vực sau: (a) các thành phố duyên hải có các hoạt động sản xuất công nghiệp và du lịch phát triển; (b) các thành phố trung tâm của các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam; và (c) các đô thị phát triển năng động có khả năng ảnh hưởng đến các vùng khác ở hạ lưu sông. Ngoài ngân sách nhà nước, cần huy động thêm các nguồn vốn khác. Cách tiếp cận tổng hợp lồng ghép các hợp phần cấp nước, vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân sẽ mang lại nhiều lợi ích lâu dài hơn. Các dự án vệ sinh cần chú ý đến thu hồi tài nguyên an toàn và hiệu quả, đặc biệt ở các lĩnh vực có khó khăn về vốn. Tái sử dụng nước thải và bùn thải sau xử lý sẽ mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống vệ sinh tổng hợp. Cần cân nhắc hiệu quả của nhiều giải pháp công nghệ và phương thức thực hiện dự án khác nhau khi lập kế hoạch phát triển vệ sinh để tối đa hiệu quả dự án. Cần đảm bảo cách tiếp cận chiến lược khi lựa chọn công nghệ và loại hệ thống (chi trả được và phù hợp với điều kiện khu vực áp dụng, ví dụ như khu vực đô thị đông dân đã hình thành từ trước, khu vực mới phát triển, thành phố lớn/nhỏ, v.v.). Cần tránh đầu tư kém hiệu quả vào các hệ thống vệ sinh không bền vững về mặt tài chính hoặc không đáp ứng được nhu cầu người dân, cần nâng cấp sau này. Cần cân nhắc giữa lợi ích kinh tế và chi phí, giữa lượng vốn cần đầu tư và tác động của nó trong quá trình lựa chọn công nghệ và thực hiện dự án. Khi lựa chọn công nghệ và thiết kế dự án cần nghiên cứu chi phí đầu tư và sử dụng trang thiết bị, khả năng tăng chi phí xây dựng trong tương lai, các điều kiện cụ thể của địa điểm thi công, cơ hội và thách thức khi thực hiện dự án. Cần khuyến khích các cấp lãnh đạo tham gia lựa chọn công nghệ và thiết kế dự án, không chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế và tài chính mà cả khả năng chi trả của từng khu vực. Ưu tiên đầu tư hợp lý và lập kế hoạch thực hiện các hoạt động đấu nối hộ gia đình, xây dựng mạng lưới thu gom và nhà máy xử lý nước thải nhằm đảm bảo tính bền vững của dự án và hiệu quả đầu tư. Phương thức tiếp cận “từ trên xuống” đòi hỏi phải huy động lượng vốn đầu tư lớn, thực hiện một số ít hoạt động với các khoản đầu tư nhà nước lớn trong khi phương thức tiếp cận “từ dưới lên” thực hiện được nhiều hoạt động quy mô nhỏ với tổng vốn đầu tư ít hơn. Có thể huy động vốn đầu tư tư nhân, đóng góp của hộ gia đình và ngân sách tỉnh – thậm chí cả ngân sách có mục tiêu của trung ương để tài trợ các hoạt động theo phương thức tiếp cận “từ dưới lên”. Ngoài ra, có thể huy động vốn từ thị trường tín dụng trong nước, trực tiếp từ các ngân hàng thương mại hay từ các ngân hàng phát triển trong nước. Có thể áp dụng kết hợp giải pháp xử lý nước thải tập trung ở khu vực đô thị đông dân (như ở các phường đã hình thành từ trước trong nội thành) và giải pháp xử lý phân tán cho khu vực ven đô có mật độ dân số thưa hơn. Cần soạn thảo văn bản hướng dẫn lựa chọn công nghệ và thực hiện dự án cho các khu vực có điều kiện địa lý, nhân khẩu, kinh tế - xã hội khác nhau. Để cải thiện hoạt động lập quy hoạch ở địa phương, cần xây dựng năng lực lập quy hoạch, thiết kế và ký kết hợp đồng cho chính quyền địa phương. Để cải thiện hiệu quả dự án, cần thiết lập cơ sở dữ liệu thồng nhất các chỉ tiêu, bao gồm các thông tin cập nhật về cải thiện môi trường. Cần hoàn thiện các tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam nhằm hỗ trợ công tác lập kế hoạch phát triển các giải pháp vệ sinh bền vững. 136 phụ lục Các đơn vị được phân công vận hành hệ thống thoát nước đô thị cần tham gia ngay từ giai đoạn bắt đầu thiết kế và thực hiện dự án. Trong khi thực hiện các hoạt động cải thiện vệ sinh, cần chú ý xây dựng năng lực cho các đơn vị cung cấp dịch vụ và đơn vị sở hữu công trình để đảm bảo dự án hiệu quả và bền vững. Cần cân nhắc các mô hình quản lý khác nhau và trao đổi, tham vấn với các bên có liên quan. Phải coi hoàn thiện thể chế và phát triển cộng đồng là các hợp phần quan trọng của dự án nước và vệ sinh. Cần thúc đẩy và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa công ty cấp nước và vệ sinh với các tổ chức cộng đồng trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện dự án. Cách tiếp cận tổng hợp, lồng ghép các hoạt động cấp nước, vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân sẽ mang lại nhiều lợi ích lâu dài hơn. Các cơ quan, ban ngành cần hợp tác chặt chẽ hơn để đảm bảo hiệu quả của dự án. Cần kết hợp các hợp phần khác nhau của dự án thành một chương trình thu gom và xử lý nước thải thống nhất, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để dự án thành công. Các công trình kỹ thuật cần được thiết kế cùng với các “phần mềm” khác như xây dựng năng lực, xây dựng mô hình quản lý và cơ chế tài chính, hướng đến việc chuyển giao dự án và công trình; các vấn đề liên quan đến đấu nối hộ gia đình – mạng lưới thoát nước – xử lý nước thải cũng như tái sử dụng nước thải và bùn thải cần được xem xét trong mối liên hệ lẫn nhau. Chính quyền địa phương cần xây dựng và bắt buộc thực hiện chính sách đấu nối hộ gia đình ở các đô thị sử dụng hệ thống thoát nước chung. Trong mỗi giai đoạn của dự án, cần cân đối nhu cầu đầu tư giữa hoạt động xây dựng công trình xử lý và hệ thống thu gom nước thải. Tài chính của dự án bền vững hay không phụ thuộc vào các công cụ tài chính, công tác lập kế hoạch/kỹ thuật và các quy định thể chế/tổ chức. Ngoài ra, quan trọng là trong giai đoạn vận hành và bảo dưỡng, dự án có đủ nguồn lực để vận hành. Vì vậy cần đảm bảo đơn vị nhận bàn giao có đủ năng lực vận hành. 137 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam PHỤ LỤC D - DANH SÁCH CÁ NHÂN THAM VẤN Đơn vị Tên và Chức vụ Đoàn công tác của Ngân hàng Thế giới Lê Duy Hưng Chuyên gia đô thị cao cấp, EASVS, Trưởng đoàn Alan Coulthart Kỹ sư đô thị trưởng, EASIN, Đồng Trưởng đoàn từ tháng 03/2012 đến tháng 06/2012 Sudipto Sarkar Trưởng ban, EASWE, Đồng Trưởng đoàn từ tháng 07/2012 đến nay James Corning Tư vấn quốc tế chính từ tháng 03/2012 đến tháng 03/2013 Nguyễn Việt-Anh Chuyên gia nước thải trong nước Trần Thị Việt Nga Trợ lý cho Tư vấn trưởng Ross Kearton Biên tập viên kỹ thuật Mara Branson Tư vấn Eric Buhl-Nielsen Tư vấn trưởng của EAUSFS Nhóm hỗ trợ và Nhóm phản biện của Ngân hàng Thế giới Victoria Kwakwa Giám đốc khu vực Việt Nam, EACVF Jennifer Sara Quản lý ngành, EASVS Charles Feinstein Quản lý ngành, EASWE Parameswaran Iyer Chuyên gia Nước và Vệ sinh môi trường chính Victor Vazquez Alvarez Chuyên gia Nước và Vệ sinh môi trường Manuel Marino Chuyên gia Nước và Vệ sinh môi trường chính, ESCUW Claire Kfouri Chuyên gia Nước và Vệ sinh môi trường cao cấp, MNSWA Other specialists from the WB/WSP Và các chuyên gia khác của Chương trình Nước và Vệ sinh/ Ngân hàng Thế giới PGS. TS. Nguyễn Hồng Tiến Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng Ông Trần Quang Hưng Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Cấp Thoát nước Việt Nam PGS. TS. Ứng Quốc Dũng Phó Chủ tịch Hội cấp thoát nước Việt Nam TS. Phạm Ngọc Thái Nguyên Trưởng phòng Kỹ thuật Công nghệ, Hội cấp thoát nước Việt Nam TS. Phạm Sỹ Liêm Nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng TS. Dương Đức Ưng Nguyên Vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ KH&ĐT Bà Nguyễn Hồng Yến Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Đối ngoại, Bộ Tài chính Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Tiến Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng Nguyễn Phi Tòng Trưởng phòng Cấp thoát nước, Cục Hạ tầng kỹ thuật Nguyễn Thị Thảo Hương Phó Trưởng phòng Cấp thoát nước, Cục Hạ tầng kỹ thuật Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Thừa Ân Chuyên viên, Vụ Kết cấu Hạ tầng và đô thị Bộ Tài Chính Trần Xuân Hoa Phó Vụ trưởng vụ Hợp tác quốc tế Dương Quỳnh Lê Chuyên viên Vụ Hợp tác quốc tế 138 phụ lục Đơn vị Tên và Chức vụ Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Hòa Bình Vụ trưởng Vụ quản lý chất thải và cải thiện môi trường, Tổng cục Môi trường Nguyễn Trung Thuận Chuyên viên Cục kiểm soát ô nhiễm, TCMT Nguyễn Minh Cường Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, TCMT Hội Cấp thoát nước Việt Nam Trần Quang Hưng Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Ứng Quốc Dũng Phó Chủ tịch Phạm Ngọc Thái Nguyên Trưởng Ban Khoa học và Công nghệ Công ty thoát nước Hà Nội Phan Hoài Minh Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Thúy Nga Trưởng phòng Môi trường nước Trung tâm chống ngập thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn H. Anh Dũng Phó Giám đốc Phạm Hồng Trưởng phòng kỹ thuật, Ban quản lý nước thải Công ty thoát nước đô thị TP. Hồ Chí Minh, nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng Lý Thọ Đắc Phó Giám đốc, Công ty Thoát nước đô thị TP Hồ Chí Minh Trần Quốc Vinh Trưởng phòng Quản lý và dịch vụ môi trường, Công ty Thoát nước đô thị TP Hồ Chí Minh Trần Kim Sơn Cán bộ quản lý, Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng, Công ty Thoát nước đô thị TP Hồ Chí Minh Từ Quang Minh Cán bộ quản lý, nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng, Công ty Thoát nước đô thị TP Hồ Chí Minh Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng và nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt Hà Ngọc Quế Phó Giám đốc Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng Nguyễn Hữu Khai Giám đốc Nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt Công ty Quản lý đô thị và môi trường Buôn Ma Thuột và nhà máy xử lý nước thải Buôn Ma Thuột Trương Công Thái Giám đốc Công ty Quản lý đô thị và môi trường Buôn Ma Thuột, Giám đốc Ban quản lý dự án Phạm Thị Thanh Sương Phó giám đốc Ban quản lý dự án Ông Trung Trưởng phòng Kỹ thuật, Ban quản lý dự án Ông Huyên Giám đốc xí nghiệp thoát nước Ông Sang Trưởng phòng kỹ thuật xí nghiệp thoát nước Ông Trung Trưởng phòng Kế hoạch, Công ty Quản lý đô thị và môi trường Buôn Ma Thuột Ban quản lý dự án Đầu tư hạ tầng ưu tiên Đà Nẵng, Công ty Môi trường đô thị, Công ty thoát nước Đà Nẵng Lương Thạch Vỹ Giám đốc Ban quản lý dự án Đầu tư hạ tầng ưu tiên Hồ Tường Huy Phó giám đốc Ban quản lý dự án Đầu tư hạ tầng ưu tiên Hồng Vinh Hiển Phó giám đốc Ban quản lý dự án Đầu tư hạ tầng ưu tiên 139 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Đơn vị Tên và Chức vụ Đặng Đức Vũ Phó giám đốc Công ty thoát nước i Đà Nẵng Ông Bình Phó giám đốc Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng Nhà máy xử lý nước thải Hà Khánh và Bãi Cháy ở Hạ Long Phan Cẩm Phả Giám đốc Ban quản lý dự án Quảng Ninh Nguyễn Văn Trình Phó giám đốc Công ty Môi trường đô thị Hạ Long Cô Nhung Trưởng phòng kỹ thuật, Công ty Môi trường đô thị Hạ Long Nhà máy xử lý nước thải Trúc Bạch, Hà Nội Cô Huyền Cán bộ quản lý nhà máy Nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long, Hà Nội Đỗ Quang Long Trưởng đội bảo dưỡng Nhà máy xử lý nước thải Bắc Giang Nguyen Tiến Tùng Phó giám đốc, Ban quản lý dự án nước thải thành phố Bắc Giang Khổng Văn Đạt Phó giám đốc, Trung tâm Bơm thoát nước đô thị Ngân hàng Phát triển Châu Á Hubert Jenny Chuyên gia phát triển đô thị chính JICA Suzuki Tadashi Trưởng đại diện, JICA, Hà Nội Jun Tsumori Cố vấn chính sách về môi trường đô thị của JICA tại Bộ Xây dựng KFW Dietmar Wenz Quản lý dự án chính GDC/GIZ Christian Henschel Cán bộ quản lý Chương trình Quản lú nước thải và chất thải rắn, GIZ Frank Pogade Cố vấn kỹ thuật trưởng, GFA Consulting Group, GIZ Christopher Scharfe Phó trưởng đoàn tư vấn, GFA Consulting Group, GIZ Các công ty/ đơn vị khác Antti Nykanen Trưởng đoàn tư vấn - Cố vấn kỹ thuật trưởng Chương trình Nước và Vệ sinh của Phần Lan Esa Renko Phó trưởng đoàn tư vấn, Chương trình Nước và Vệ sinh của Phần Lan Huey Douglas Pham Cán bộ quản lý khu vực Việt Nam, CDM Consultants, TP. HCM Huỳnh Duy Tú Thiện Kỹ sư thường trú, CDM, HCMC TS. Paul Zuber Giám đốc công nghệ, Biwater, UK Lê Thanh Tổng Giám đốc, Công ty Phú Điền, Hà Nội Nguyễn Phương Quý Giám đốc, SFC Việt Nam, Hà Nội 140 phụ lục PHỤ LỤC E - ALBUM ẢNH Xây dựng và vận hành, bảo dưỡng mạng lưới thoát nước Xây dựng cống thoát nước ở các khu đô thị hiện có Từ 2012, sau 10 năm thi công, cống bao chính Nhiêu Lộc luôn là những khó khăn lớn - Thị Nghè đã bắt đầu góp phần hạn chế ngập úng và cải thiện môi trường cho TP Hồ Chí Minh Cảnh thoát nước mưa, nước xám và nước thải bể tự hoại Làm nắp cho các rãnh thoát nước chung lộ thiên dọc các lộ thiên ra các con phố là hình ảnh thường gặp ở Hà Nội phố là giải pháp tình thế của TP Hà Nội và các thành phố khác Xả thải lộ thiên nước thải ra bãi biển du lịch Nạo vét thủ công cống thoát nước chung khó được chấp nhận(1) ở Hà Nội Các hố ga trong thành phố là vấn đề còn chưa được Thu gom, xử lý và thải bỏ bùn nạo vét từ cống thoát quan tâm giải quyết tốt nước là vấn đề lớn 1 Nguồn: Các ảnh trong Photo Album do Nguyễn Việt Anh chụp, trừ khi nêu rõ nguồn: (1) Corning J.; (2) Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng; (3) Nguồn: không rõ; (4) Công ty cổ phần Phú Mỹ Hưng; (5) Corning J.; (6) Chương trình Quản lý nước thải và rác thải Việt Nam - Đức (GIZ). 141 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động ở các đô thị Việt Nam Trúc Bạch, Hà Nội (2005) Kim Liên, Hà Nội (2005) Đà Lạt, Lâm Đồng (2006)(2) Buôn Ma Thuột, Dak Lak (2006) Hòa Cường, Đà Nẵng (2006) Phú Lộc, Đà Nẵng (2006) Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng (2006) Sơn Trà, Đà Nẵng (2006) 142 phụ lục Các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động ở các đô thị Việt Nam (tiếp) Bãi Cháy, Quảng Ninh (2007)(3) Bình Hưng Hòa, TP HCM (2008) Bắc Thăng Long, Hà Nội (2009) Hà Khánh, Quảng Ninh (2009) Nam Viên, Phú Mỹ Hưng, HCM (2009)(4) Bình Hưng, TP HCM (2009) Bắc Giang (2010) Yên Sở, Hà Nội ( 2012 ) 143 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Xử lý phân bùn bể tự hoại Làm đặc và ủ compost phân bùn là các bước xử lý chính ở Hồ ổn định để xử lý phân bùn ở Tràng Cát, Hải Phòng nhà máy xử lý rác Cầu Diễn, Hà Nội Xử lý kết hợp phân bùn với nước thải ở nhà máy xử lý Xử lý kết hợp phân bùn với nước thải ở nhà máy xử lý nước thải Buôn Ma Thuột nước thải Đà Lạt Sân phơi bùn ở nhà máy xử lý nước thải Bãi Cháy. Trạm xử lý phân bùn bằng phương pháp ổn định bằng vôi Trạm nhận phân bùn ở phía sau không hoạt động và sân phơi bùn (không hoạt động) ở Hà Khẩu, Hạ Long. Bể làm đặc bùn ở bãi chôn lấp rác Chế biến phân compost từ phân bùn tại Khu liên hợp xử lý Khánh Sơn, Đà Nẵng chất thải rắn Đa Phước, TP. HCM 144 phụ lục Thách thức đối với công tác vận hành và bảo dưỡng Máy ép bùn chưa hề sử dụng sau hai năm vận hành nhà Nước thải đầu vào từ HTTN chung có hàm lượng chất máy xử lý nước thải Bắc Giang hữu cơ thấp, khiến việc vận hành liên tục máy sục khí bề mặt trở nên không cần thiết (nhà máy XLNT Bình Hưng Hòa, TP. HCM) Ô nhiễm mùi là vấn đề nan giải của nhiều nhà máy xử lý Hệ thống SCADA công nghệ cao không hoạt động ở nhà nước thải máy xử lý nước thải Bắc Giang do công tác bàn giao chưa tốt Nước thải đầu vào từ kênh hở của hệ thống thoát nước Do đô thị hóa, hồ yếm khí này phải phủ kín. Tuy nhiên, chung không phù hợp để xử lý bằng công nghệ bùn hoạt nhà máy sẽ đóng cửa khi nước thải được dẫn về nhà máy tính theo mẻ(5) mới để xử lý đạt tiêu chuẩn xả thải Nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long, Hà Nội hiện đang hoạt động dưới công suất thiết kế do chưa phát Thiếu ngân sách là thách thức chính cản trở thực hiện triển được mạng lưới thu gom vận hành và bảo dưỡng đúng kỹ thuật nhà máy xử lý nước thải 145 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam Xử lý nước thải phân tán Bể tự hoại nhiều ngăn và hệ thống bãi lọc trồng cây ở thị Bể tự hoại nhiều ngăn và hệ thống bãi lọc trồng cây ở thị xã Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xã Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn(6) Bể tự hoại nhiều ngăn và hệ thống bãi lọc trồng cây ở Trạm xử lý nước thải phân tán cho khu dân cư xã Kiêu Kỵ, thôn Lai Xá, ngoại thành Hà Nội ngoại thành Hà Nội Trạm xử lý nước thải phân tán ở Phù Cát, Hòa Lạc, Bể tự hoại nhiều ngăn sử dụng cho khu đô thị mới ngoại thành Hà Nội Xuân Mai, Hà Nội Các bể xử lý nước thải hợp khối, lắp đặt cho các biệt thự ở Các bể xử lý nước thải hợp khối, lắp đặt cho các biệt thự Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội sinh thái ở Đông Anh, Hà Nội 146 phụ lục Sự tham gia tích cực và sáng tạo Van một chiều do Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng chế Thiết bị thu gom váng bùn ở bể lắng hai vỏ do ông Khải, tạo để khắc phục tình trạng nước mưa thâm nhập vào hệ Công ty Cấp thoát nước Lâm Đồng phát minh thống thu gom nước thải Nạo vét cống ở thành phố Buôn Ma Thuột Nạo vét cống ở thành phố Buôn Ma Thuột Làm sạch hố ga đấu nối hộ gia đình được thực hiện tốt ở Buôn Ma Thuột Nước thải đã qua xử lý được sử dụng để tưới cà phê Ủ compost bùn để sản xuất phân bón ở Buôn Ma Thuột ở nhà máy xử lý nước thải Đà Lạt 147 tài liệu tham khảo TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ADB, 2009. Đánh giá ngành nước Việt Nam. 2. ADB, 2010. Báo cáo đánh giá: Chiến lược và lộ trình phát triển cấp nước và vệ sinh môi trường Việt Nam. 3. AECOM International Development, Inc. và Ban Nước và Vệ sinh môi trường ác quốc gia đang phát triển (Sandec), Viện Khoa học Công nghệ Thủy sinh Liên bang Thụy Sỹ (Eawag). Đánh giá nhanh công tác quản lý chất thải rắn ở châu Á: Chính sách và áp dụng ở Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam. ECO-Asia. USAID: Nhiệm vụ phát triển khu vực Châu Á (RDMA). 01/2010. 4. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới số ICR0000793. Báo cáo kết thúc thực hiện và kết quả (IDA-32110 TF- 24899) khoản vay đầu tư thực hiện dự án vệ sinh ba thành phố cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 25/06/2009. 5. Báo cáo đánh giá ngành nước (ADB TA 4903-VIE). Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2008. 6. Báo cáo dự án đánh giá ngành nước (ADB TA 4903-VIE). Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2008. 7. Báo cáo năm và ghi chép hoạt động vận hành thường xuyên của các đơn vị thoát nước đô thị và đơn vị cung cấp dịch vụ công ích đô thị ở 7 thành phố: Hà Nội, Hạ Long, Bắc Giang, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt và thành phố Hồ Chí Minh. 8. Báo cáo năm, Công ty thoát nước Hải Phòng. 2005 – 2010. 9. Báo cáo tóm tắt ngành Nước và vệ sinh, WHO – UNICEF. 2010. 10. Báo cáo về nhu cầu và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm phân vi sinh. Ban quản lý dự án – Nhóm chuyên gia JICA. VAST. Hà Nội, 3/2008. (bản tiếng Việt). 11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Bộ Y tế, 2011. Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường giai đoạn 2011 - 2015. 12. Bộ Y tế – UNICEF (2007). Nghiên cứu Vệ sinh môi trường nông thôn Việt Nam. Tác giả: Nguyễn Huy Nga, Trần Đắc Phu Nguyễn Thị Hồng Tú, Trịnh Hữu Vách, Trương Đình Bắc, Nguyễn Thanh Hiền, Thái Thị Thu Hà. 13. Carl Bro (Grontmij) – Chương trình Nước và Vệ sinh, báo cáo của dự án U3SAP, 8/2012. 14. CDM International Inc. Dự án đầu tư hạ tầng ưu tiên Đà Nẵng, gói A23+ A24+ B27. B27: xây dựng mô hình thủy lực cho mạng lưới thoát nước Đà Nẵng, báo cáo tóm tắt dự án, tháng 06/2012. 15. CDM International Inc. Dự án vệ sinh môi trường khu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè ở thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo của Ngân hàng Thế giới - Đoàn công tác Nân hàng Thế giới từ ngày 10 - 11/04/2012. Chương trình cấp nước và vệ sinh cho các thị trấn ở Việt Nam, Hợp phần G. Dự án vệ sinh ba thành 16. phố, tiểu dự án Hải Phòng – Báo cáo kết thúc dự án. Tư vấn quản lý thi công – Ban quản lý dự án/Công ty thoát nước. 17. Chương trình giám sát chung của WHO/UNICEF năm 2008. WHO/UNICEF, 2008. 18. Chương trình giám sát chung của WHO/UNICEF, 2008. 19. Chương trình quản lý nước thải. Tài trợ bền vững công tác quản lý, vận hành công trình quản lý nước thải ở khu vực đô thị, khu công nghiệp và làng nghề - thách thức và kiến nghị. Tạp chí cấp thoát nước số 3(90), 4-2013 (Tiếng Việt). 20. Công ty cấp nước Hà Nội, 2010. 149 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 21. Công ty phát triển quốc tế AECOM và Phòng Nước và vệ sinh ở các nước đang phát triển (Sandec), Viện Khoa học và Kỹ thuật thủy sản liên bang Thụy Sỹ (Eawag). Đánh giá nhanh công tác quản lý phân bùn ở Châu Á: Chính sách và thực tiễn ở Ấn Độ, Ma-lay-si-a, Phi-lip-pin, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam. ECO-Asia. USAID: Ban phát triển khu vực châu Á (RDMA). 01/2010. 22. Công ty thoát nước Hà Nội, Báo cáo năm, 2004 - 2010. 23. CSE. Dự thảo báo cáo Nghiên cứu khả thi dự án Vệ sinh môi trường thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2, tháng 03/2012. 24. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các dự án vệ sinh ở Việt Nam. Báo cáo của Nguyễn Việt Anh, Lan, HT., Dan PH., Hoa, LT., Nhung, BT., Hutton, G. Chương trình Nước và Vệ sinh, Ngân hàng Thế giới. 2011. Xem tại www.wsp.org. 25. Daniel Harris, Michelle Kooy và Lindsey Jones. Phân tích công tác quản trị và kinh tế chính trị trong hoạt động cung cấp dịch vụ nước và vệ sinh môi trường; Báo cáo công tác 334. Viện phát triển quốc tế, 2011. 26. Dữ liệu của Ngân hàng Thế giới: http://data.worldbank.org/country/vietnam. 27. Dự thảo báo cáo của dự án Xây dựng Chiến lược thống nhất về Vệ sinh môi trường và Kế hoạch hành động cho Việt Nam, Carl Bro – Chương trình Nước và Vệ sinh/WB – Bộ Xây dựng, 2012. 28. Guy Hutton, Nguyễn Việt Anh và Almud Weitz. Báo cáo tóm tắt nghiên cứu. Hiệu quả kinh tế của các giải pháp vệ sinh môi trường ở Việt Nam. Chương trình Nước và Vệ sinh/ Ngân hàng Thế giới, tháng 08/2011. 29. Hội cấp thoát nước Việt Nam (VWSA). Khảo sát các thông số kinh tế, kỹ thuật, 2006. http://vwsa.org. vn. 30. Hydroconceil – PEM Consult. Quản lý vệ sinh ở các khu vực đô thị Việt Nam. Báo cáo nghiên cứu cho Ngân hàng Thế giới - AusAID, 2010. 31. JICA, 2011. Báo cáo nghiên cứu. Quản lý môi trường đô thị Việt Nam 32. Klingel, Florian. “Dự án phát triển đô thị Nam Định, nghiên cứu quản lý phân bùn”. Công ty phát triển đô thị quốc tế Colenco, 11/2001. 33. Lê Duy Hưng, Tài chính bền vững cho hệ thống thoát nước và xử lý nước thải: Bài học rút ra từ các dự án do Ngân hàng thế giới tài trợ ở Việt Nam. Ghi chép từ hội thảo VWSA – SEAWUN về nước thải, Vũng Tàu, 12/10/ 2011. 34. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo về các thành phố và ngập lụtg, 2012. 35. Ngân hàng Thế giới. Đánh giá vệ sinh đô thị các nước Đông Á - Thái Bình Dương, 2013. 36. Nguyễn Việt Anh (2007). Bể tự hoại và bể tự hoại cải tiến. Nhà xuất bản Xây dựng (sách, tiếng Việt). 37. Nguyễn Việt Anh (2007). Bể tự hoại và bể tự hoại cải tiens. Nhà xuất bản Xây dựng (Tiếng Việt). 38. Nguyễn Việt Anh (2009). Thoát nước đô thị bền vững. Tạp chí xây dựng (ISSN 0866 – 8762). #10/2009. trang 32-37 (Tiếng Việt). 39. Nguyễn Việt Anh (TL), Nguyễn Hồng Sâm, Nguyễn Phước Dân, Bùi Xuân Thành, Đinh Đăng Hải (2012). Quản lý phân bùn, đánh giá cảnh quan đô thị Việt Nam, Qũy Bill & Melinda Gates. 40. Nguyễn Việt Anh, Lan, HT., Dan PH., Hoa, LT., Nhung, BT., Hutton, G. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các dự án vệ sinh ở Việt Nam. Báo cáo của Chương trình Nước và Vệ sinh, Ngân hàng Thế giới, 2011. (Xem tại www.wsp.org). 150 tài liệu tham khảo 41. Nguyễn Việt Anh, Lan, HT., Dân PH., Hoa, LT., Nhung, BT., Hutton, G. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các giải pháp vệ sinh môi trường ở Việt Nam. Báo cáo nghiên cứu cho Chương trình Nước và Vệ sinh, Ngân hàng Thế giới, 2011 (xem tại www.wsp.org). 42. Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Hồng Sâm, Đinh Đăng Hải, Nguyễn Phước Dân, Bùi Xuân Thành. Phân tích cảnh quan và đánh giá mô hình kinh doanh dịch vụ quản lý phân bùn: các mô hình thông hút và vận chuyển ở Việt Nam. Báo cáo cuối cùng. Cho quỹ Bill & Melinda Gates Foundation, 2012. 43. Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Khắc Hải. Báo cáo đánh giá lĩnh vực cấp nước và vệ sinh môi trường ở Việt Nam cho Bộ Y tế - WHO - UNICEF, tháng 07/2012 (Tiếng Việt). 44. Nguyễn Việt Anh, Phạm Thị Thúy. Báo cáo cơ sở về kế toán và hiệu quả ngành nước ở Việt Nam cho UNEP, 2011. 45. Parkinson và Tayler (2003). Quản lý nước thải phân tán ở các khu vực ven đô các nước có thu nhập thấp. Môi trường. Đô thị. 15, trang 75–89. 46. Paul Schuttenbelt, Nguyễn Việt Anh, Barbara Withney (2009). Các thách thức đối với lĩnh vực nước và nước thải ở Việt Nam. Báo cáo cơ sở. Diễn đàn phát triển dodo thị bền vững 2009. Do InWEnt xuất bản, báo cáo cho Bộ hợp tác và Phát triển kinh tế của liên bang Đức (BMZ) và Bộ Xây dựng Việt Nam. 47. Paul Schuttenbelt, Nguyễn Việt Anh, Barbara Withney (2009). Thách thức đối với ngành nước thải và rác thải ở Việt Nam. Báo cáo hiện trạng. Diễn đàn phát triển đô thị bền vững 2009. InWEnt xuất bản, cho Bộ Hợp tác và Phát triển kinh tế liên bang Đức (BMZ) và Bộ Xây dựng Việt Nam 48. Phạm Nguyệt Ánh, Hidenari Harada, Shigeo Fujii, Trần Văn Quang, Hoàng Hải, Shuhei Tanaka, Chinagarn Kunacheva (2012). Tác động của quản lý bể tự hoại đến nồng độ chất ô nhiễm trong phân bùn: nghiên cứu trường hợp ở Đà Nẵng, Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Số 50, No. 1C, 2012. trang 138 – 144. 49. Phạm Tuấn Anh, Hồ Ánh Tuyết, Chu Thị Phương. Công ty WEICO Co. Đấu nối hộ gia đình và quản lý nước thải ở khu vực thành phố Đà Nẵng, bản dự thảo cho dự án Đầu tư hạ tầng ưu tiên thành phố Đà Nẵng, tháng 07/ 2012. (Tiếng Việt) 50. RETA 6498: Hỗ trợ kiến thức và sáng kiến cho Chương trình tài trợ ngành nước của Ngân hàng Phát triển Châu Á - Thí điểm và Trình diễn ở Việt Nam: Các giải pháp vệ sinh phù hợp cho khu vực ven đô Việt Nam: Hỗ trợ sau Hiệp định phát triển dự án. EAST Việt Nam, tháng 11/2012. 51. Tác động kinh tế của vệ sinh môi trường ở Việt Nam. Thang, PN., Tuan, HA., Hutton, G. World Bank, Chương trình Nước và Vệ sinh. 2008. 52. Thắng, PN., Tuấn, HA., Hutton, G. Tác động kinh tế của vệ sinh môi trường ở Việt Nam. Báo cáo nghiên cứu cho Chương trình Nước và Vệ sinh, Ngân hàng Theesg giới, 2008. 53. Tóm tắt lĩnh vực nước, vệ sinh môi trường và vệ sinh các nhân ở Việt Nam, Viện Tương lai bền vững, Đại học Công nghệ Sydney, báo cáo cho AusAID, tháng 10/2011. 54. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2010. 55. Tổng cục thống kê. Sách hống kê Việt Nam năm 2010. 56. Trịnh Xuân Lai. Phương pháp tiếp cận toàn diện để phát triển và duy trì mạng lưới thoát nước ở các đô thị Việt Nam. Báo cáo trình bày tại Hội thảo về quản lý vệ sinh và nước thải của ADB, Manila, 09/08/2005. 57. Việt-Anh Nguyễn, Antoine Morel và Karin Tonderski. Bể tự hoại nhiều ngăn có lọc yếm khí (BASTAF) và Bãi lọc ngập nước dòng chảy đứng trong hoạt động xử lý nước thải sinh hoạt ở Việt Nam. Water Practice & Technology © Nhà xuất bản IWA 2010. 151 đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị tại việt nam 58. Việt-Anh Nguyễn. Tại sao mô hình DEWATS chưa được sử dụng phổ biến ở Việt Nam? Water Practice & Technology © Nhà xuất bản IWA 2010. 59. WHO/UNICEF, 2008, và ADB, 2006. Các trang web: 60. www.vnexpress.net, ngày 06/09/2011. http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/200417/print/Default.aspx. http://www.phumyhung.com.vn/noisan_detail.php?id=115. 152